Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014
215 BỆNH GIUN XOĂN DẠ MÚI KHẾ Ở GIA S ÚC NHAI LẠI (Trichostrongylidosis)
215 BỆNH GIUN XOĂN DẠ MÚI KHẾ Ở GIA S ÚC NHAI LẠI
(Trichostrongylidosis)
Lớp giun tròn (Nematoda) có nhiều loài ký sinh ở ngƣời, động vật và cây trồng. Đặc
biệt, giun tròn ký sinh ở gia súc nhai lại Việt Nam có thành phần loài khá phong phú,
phân bố rộng khắp các miền trong cả nƣớc và đã gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng đối
với ngành chăn nuôi, trong đó có chăn nuôi g ia súc nhai lạ i.
Bệnh giun xoăn dạ múi khế là bệnh phổ biến trên đàn súc vật nhai lại ở nƣớc ta
cũng nhƣ của nhiều nƣớc trên thế giới. Bệnh do nhiều loài giun tròn ký sinh ở dạ múi
khế của gia súc nhai lại gây nên. Theo nhiều tác giả (Skrjabin, 1963; Tr ịnh Văn Thịnh,
1963, 1978; Phan Địch Lân, 1989; Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996....), giun xoăn
ở dạ múi khế hút máu ký chủ, làm cho ký chủ bị thiếu máu nặng, đồng thời giun làm
tổn thƣơng niêm mạc dạ mú i khế, gây hội chứng ỉa chảy. Gia súc bị bệnh còi cọc,
chậm lớn, giả m sức đề kháng với các bệnh khác và dễ chết nếu mắc bệnh nặng.
1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA GIUN XOĂN DẠ MÚI KHẾ
1.1. Vị trí của giun xoăn dạ múi khế trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Slơjabin và cs (1977), Nguyễn Thị Lê và cs (1996), giun xoăn dạ múi khế có vị
trí trong hệ thống phân loại động vật học nhƣ sau:
Ngành Nemathelminthes Schneider, 1873
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Strongylida Railliet et Henry , 1913
Phân bộ Strongylata Railliet et Henry, 1913
Siêu họ Trichostrongyloidea Chim, 1927
Họ Trichostrongylidae Leiper, 1912
Phân họ Trichostrongylinae Leiper, 1905
Giống Trichostrongylus Looss, 1905
Loài T. colubriformis (Giles, 1892)
Loài T. axei (Cobbold, 1879)
Loài T. probolurus (Railliet, 1 896)
Giống Ostertagia Ransom, 1907
Loài O. ostertagi (Stiles, 1892)
Loài O. circumcincta (Stadelmann, 1894)
216 Giống Marshallagia Orloff, 1933
Loài M. marshalli (Ransom, 1907)
Phân họ Haemonchinae Skrjabin et Schulz, 1952
Giống H aemonchus Cobbold, 1898
Loài H. contortus (Rudolphi, 1803)
Loài H. similis (Travassos, 1914)
Phân họ Cooperinae Slơjabin et Schikhobalova, 1952
Giống Cooperia Ransom, 1907
Loài C. curticei (Giles, 1892)
Loài C. punctata (Linstow, 1906)
Phân họ Nematodirinae Skrjabin et Orloff, 1934
Giống Nematodirus Ransom, 1907
Loài N. oiratianus (Rajevskaia, 1929)
Loài N. sk rjabini (Mizkewisch, 1929)
Giống Mecistocirrus Railliet et Henry, 1912
Loài M. digitatus (Linstow, 1906)
1.2. Đặc điểm hình thái và chu kỳ sinh học của một số loài giun xoăn chủ yếu ở dạ múi
khế
1.2.1. Loài Haemonchus contortus
* Hình thái
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996), loài Haemonchus contortus (Rudolphi, 1803)
ký sinh ở dạ múi khế và ruột non của bò, trâu, dê trên phạm vi toàn quốc và phổ biến
trên toàn cầu: Tác giả đã mô tả hình thái H. contortus (theo Kamenskii, 1929): giun
đực dài 18,7 - 22,3 mm, rộng nhất 0,352 - 0,416 mm. Túi sinh dục có 3 thuỳ (2 thuỳ
bên dài, thuỳ sau không đối xứng). Các sƣờn bên hƣớng về phía sau, các sƣờn bụng
cong về phía trƣớc. Các sƣờn bên chung một gốc lớn, mút cuối có sự phân nhánh. Gai
sinh dục màu nâu, dài 0,448 - 0,544 mm, phần đuôi thắt nhỏ nhanh và kết thúc bằng
một phần đặc trƣng nhƣ chiếc kim. Gai điều chỉnh dạng thuyền, dài 0,250 - 0,312 mm.
Giun cái dài 25.0 - 34.2 mm, rộng nhất 0,5.88 - 0,739 mm. Lỗ sinh dục cách mút đuôi
5,92 - 7,07 mm. Vùng âm môn có một van hình lƣỡi cầy, dài 0,750 - 1,068 mm, rộng
0,330 - 0,580 mm. Túi nhận tinh dài 0,80 - 1,16 mm. Buồng trứng uốn khúc hình ma i
xo. Trứng có vỏ mỏng, kích thƣớc 0,080 - 0,085 mm x 0,040 - 0,045 mm.
217 Đặc điểm hình thái cấu tạo của loài Haemonchus contortus mà Nguyễn Thị Lê mô
tả ở trên phù hợp với sự mô tả của nhiều tác giả khác (Skrjabin và Petr ov, 1963; Trịnh
Văn Thịnh, 1978, 1982; Johannes Kaufmann, 1996; Urquharrt, 1996....).
* Chu kỳ sinh học
Chu kỳ sinh học (vòng đời hay chu kỳ phát triển) của giun H. contortus đã đƣợc
nghiên cứu hoàn chỉnh và có nhiều tác giả nghi nhận. Dinaburg (1944), Silverman và
Campbell (1959) đã ngh iên cứu ch i t iết s ự ph át t riển củ a t rứng v à ấ u trùng
Haemonchus. Crofton (1963) và Levine (1963) nghiên cứu về sinh thái của ấu trùng
trên đồng cỏ...
Skrjabin và Petrov (1963) cho biết: giun cái đẻ trứng, trứng đƣợc bài xuất cùng
phân ra môi trƣờng bên ngoài. Nhiệt độ của môi trƣờng bên ngoài thích hợp cho trứng
phát triển tiếp tục là 20 - 30
0
C. Trong phân, vào ngày thứ hai đã thấy có ấu trùng giai
đoạn 1 nở ra khỏi trứng. Những ấu trùng này ăn phân và sống trong p hân một thời
gian, nhƣng không cảm nhiễm đƣợc cho súc vật. Ở giai đoạn này, ấu trùng kém bền
vững hơn ở các giai đoạn sau: chúng chết khi phơi khô và ở nhiệt độ trên 300c. sự thay
đổi về nóng và lạnh cũng làm cho ấu trùng bị chết. Ở nhiệt độ 15 - 20
0
C, ấu trùng giai
đoạn I chỉ sau 1 đêm đã ở giai đoạn tiềm sinh, kéo dài 12 - 15 giờ. Trong thời gian
này, ấu trùng lột xác, sau đó sống trở lại và chuyển vào giai đoạn II.
218 Ở gia i đoạn II, ấu trùng mất đi khả năng ăn uống, và cũng không thể ký sin h
đƣợc.
Qua một ngày sau, đôi khi chƣa đến 1 ngày, ấu trùng lại trở lạ i ở giai đoạn tiềm sinh
lần thứ hai. Trong thời gian này, ấu trùng lớn lên, nhƣng tầng cuốn bao quanh vẫn giữ
nguyên và tạo thành nắp. Sau khi hình thành nắp thì ấu trùng chuyển vào giai đoạn III. Lúc
này, ấu trùng đã có khả năng cảm nhiễm cho động vật. Từ khi đẻ trứng đến giai đoạn ấu
trùng cảm nhiễm cần thời gian không dƣới 4 - 5 ngày.
Ở giai đoạn III, ấu trùng có sức đề kháng đặc biệt. Chúng chết trong môi trƣờng
ẩm khi nhiệt độ 50
0
C và trong môi trƣờng khô khi 60
0
C. Những ấu trùng này đặc biệt
chịu đƣợc sự khô hạn. Khi khô hạn, chúng có thể ở trong trạng thái tiềm sinh trên 1
năm rƣỡi. Đối với các chất tiêu độc, ấu trùng cũng rất bền vững: dung dịch creolin 2 -3%, lizol và các chất khác không giết đƣợc ấu trùng. Ấu trùng chết trong dung dịch
axit cacbonic 5% không tinh khiết. Cũng nhƣ ở giai đoạn I và II, ấu trùng cảm nhiễm
chết dƣới tác động của nƣớc tiểu. Bởi vậy, trong các chuồng nuôi súc vật không thể
tìm thấy ấu trùng sống. Phát triển đến giai đoạn cảm nhiễm ở trong phân, sau đó ấu
trùng tự rời bỏ phân đi nơi khác
Vào mùa đông, ấu trùng ở trên đồng cỏ thƣờng bị chết. Mùa hè, ấu trùng cũng có thể
bị chết dƣới tác động của ánh nắng mặt trời và nhiệt độ cao.
Nếu nhƣ vào thời gian ấu trùng chui ra khỏi phân, môi trƣờng xung quanh phân
ẩm thì ấu trùng có khả năng bò lên phía trên theo vật ẩm đó. Nếu phân ở trong cỏ thì
ấu trùng sẽ chuyển động theo những ngọn cỏ ở xung quanh. Quá trình chuyển động
thẳng đứng theo ngọn cỏ xả y ra càng nhanh hơn nữa ở những nơi đồng cỏ thấp, trong
các mùa vụ ẩm ƣớt, trong thời gian mƣa nhiều, trong sƣơng mù và khi có nhiều sƣơng
xuống. Để ấu trùng có thể bò theo ngọn cỏ không cần phải có lƣợng ẩm nhiều, mà chỉ
cần một lớp ẩm rất ít bọc trên cỏ cũng đã đủ cho ấu trùng chuyển động. Khi độ ẩm
cao, ấu trùng không có khả năng bám vào cỏ, mà rơi xuống cùng với nƣớc và đƣợc
nƣớc mang đến những nơi thấp hơn. Bởi vậy, tất cả những nơi đồng cỏ thấp, đầm lầy
và các vũng đọng nƣớc mƣa là những nơi chí nh làm cho trâu, bò, dê, cừu nhiễm
Haemonchus.
Trong những điều kiện bất lợi (khô hoặc quá ƣớt) thì ấu trùng cảm nhiễm cuộn tròn
lại Nếu ấu trùng bị khô (mặc dù trong thời gian dài) đƣợc làm ẩm ƣớt thì chỉ sau 20 - 30
phút, ấu trùng sẽ sống trở lại, đuôi thẳng và tiếp tục di chuyển theo ngọn cỏ. Ấu trùng
giai đoạn III, mặc dù không ăn uống gì, trong điều kiện môi trƣờng ẩm vẫn có khả năng
sống tới 3 - 4 tháng..
Những ấu trùng cảm nhiễm đƣợc súc vật nhai lại nuốt cùng thức ăn và nƣớc uống vào
dạ dày. Ở đây, chúng "vứt bỏ" vỏ và chuyển sang giai đoạn IV. Thực hiện xong 1 lần lột
xác nữa , ấu trùng có khả năng ký sinh và hút máu ký chủ. Sau 2 - 3 tuần,
Haemonchus trở thành thành thục, con cái bắt đầu đẻ trứng.
219 Thời gian sống của Haemonchus trong cơ thể gia súc nhai lại chƣa rõ, nhƣng
ngƣời ta cho rằng, thời gian này không quá 1 năm. Càng về sau, giun càng già và mất đi
khả năng tiếp tục ký sinh.
Urquhart G. M. (1996) là m rõ thêm vòng đời của Haemonchus contortus: ấu
trùng cảm nhiễm vào ống tiêu hoá súc vật nhai lại thực hiện hai lần lột xác trong ống
dẫn tuyến. Chỉ trƣớc khi lột xác lần cuối chúng mới phát triển đến giai đoạn lấy máu
ký chủ từ những mao quản ở niêm mạc. Khi trƣởng thành, chúng di chuyển tự do trên
bề mặt niêm mạc. Thời gian hoà n thành vòng đời ở dê, cừu là 2 - 3 tuần và ở đại gia
súc là 4 tuần.
1.2.2. Một số loài thuộc giống Trichostrongylus
Giống Trichostrongylus gồm nhiều loài, trong đó có một số loài quan trọng ký sinh
ở dạ múi khế và ruột non của gia súc nhai lại.
* Hình thái: Trichostrongylus axei (Cobbold, 1879) đƣợc phát hiện ở nhiều nơi
trên thế giới. Ở Việt Na m, các nhà khoa học đã tìm thấy loà i giun này ở các tỉnh
Quảng Ninh, Lạng Sơn... Nhiều tác giả đã mô tả (theo Ransom, 1911): giun đực dài
3,4 - 4,5 mm, rộng nhất 0,05 - 0,07 mm. Sƣờn bụng bên của túi sinh dục mảnh. Các
sƣờn bụng sau, sƣờn bụng giữa và sƣờn bên có độ dày nhƣ nhau. Sƣờn lƣng dài và
mảnh, chia 2 nhánh ở cuối, mỗi nhánh lại chia thành 2 nhánh nhỏ. Gai sinh dục màu
vàng nâu, kích thƣớc khác nhau (chiếc nhỏ dài 0,085 - 0,104 mm, chiếc lớn dài 0,110 -0,128 mm). Mút cuối gai sinh dục có hình tam giác. Gai điều chỉnh dài 0,705 - 0,720
mm. Giun cái dài 4,6 - 5,5 mm, rộng 0,055 - 0,075 mm. Thực quản dài 0,155 - 0,175
mm. Lỗ sinh dục cách mút đuôi 0,800 - 1 ,072 mm. Đuôi thẳng, hình nón, dài 0,06 -0,09 mm. Nón sinh dục hẹp. Kích th ƣớc trứng 90 - 92 x 35 - 42 c m (Dro zd z và
Malcrewski, 1967; Phan Thế Việt 1977; Nguyễn Thị Lê, 1996).
Hình 108. Gai giao hợp của Hình 109. Túi đuôi và gai giao hợp của
Trichostrongylus axei Trichostrongylus axei
220 Theo Johannes Kaufman (1996), T. axei thấy phổ biến ở khắp nơi trên thế giới.
Giun đực dài 2,6 - 6 mm; giun cái dài 3,5 - 8 mm. Trứng có kích thƣớc 79 - 92 x 31 -41 μm. Ngoài loài giun T. axei còn có một loài, mà theo Skrjabin (1963) là loài điển
hình cho giống Trichostrongylus, đó là loài T. colubriformis. Theo nhiều tác giả thì
loài giun này phổ biến ở bò, dê, cừu trên phạm vi toàn cầu. Ở nƣớc ta, phát hiện giun ở
dạ múi khế và ruột non bò, dê ở các tỉnh phía Bắc. Giun đực dài 4,0 - 6,0 mm, rộng
0,078 - 0,095 mm. Túi sinh dục phát triển nhƣng không cân đối. Các sƣờn bên chung
một gốc lớn và mập hơn các sƣờn bụng. Sƣờn lƣng gần cuối hơi phình ra. Hai gai sinh
dục dài bằng nhau, hình thuyền cong, dài 0,118 - 0,145 mm, mút cuối có mấu hình tam
giác. Gai đ iều chỉnh dài 0,065 - 0,078 mm. Giun cái dài 5,0 - 6,0 mm; rộng nhất ở
vùng lỗ sinh dục (0,080 - 0,100 mm). Thực quản dài 0,648 - 0,730 mm. Lỗ bài tiết
cách mút đầu 0,092 - 0,129 mm. Lỗ sinh dục dạng rãnh dọc, có môi, cách mút đuôi
0,067 - 0,076 mm. Túi nhận tinh hình cầu, dài 0,375 - 0,500 mm. Trứng có kích thƣớc
73 - 76 x 40 - 43 μm (Nguyễn Thị Lê, 1996; Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996).
* Chu kỳ sinh học
Nhiều tác giả, khi ngh iên cứu về chu kỳ sinh học của giun tròn đều thống nhất:
các loài thuộc giống Trichostrongylus có vòng đời trực tiếp, không cần ký chủ trung
gian (nghĩa là không có sự thay đổi ký chủ) (Direct nematode life cycle). Trứng giun
theo phân ra ngoài, gặp điề u kiện thích hợp (nhiệt độ và ẩm độ), sau 20 - 24 giờ nở ra
ấu trùng kỳ I. Ấu trùng này hình gậy, thực quản hình ống và có ruột cấu tạo đơn giản,
hoạt động mạnh. Chúng dùng các loại vi sinh vật ở xung quanh làm chất dinh dƣỡng,
sau 10 - 30 giờ lột xác t hành ấu trùng kỳ II to hơn ấu trùng kỳ I, cấu tạo tƣơng đối
giống nhau. ấu trùng này hoạt động rất mạnh và công lấy vi sinh vật xung quanh nuôi
sống bản thân. Sau 12 - 60 g iờ thành ấu trùng kỳ III có sức gây nhiễm. Trƣớc kh i
thành ấu trùng kỳ III, ấu trùng kỳ H không lột xác, màng bọc ngoài trở thành màng
ngoài của ấu trùng kỳ III. Lúc này ấu trùng kỳ IH không thể lấy thức ăn ở bên ngoài
mà chỉ sống dựa vào thức ăn do ấu trùng kỳ II tích luỹ lại ở trong ruột. ấu trùng ở bên
ngoài đến giai đoạn này là kết thúc, chúng có sức đề kháng mạnh, có thể sống lâu. Tuy
nhiên, nếu khô hoặc có ánh nắng.... thì ấu trùng dễ chết.
Khi gia súc nhai lại ăn cỏ, uống nƣớc có ấu trùng gây nhiễm, vào đƣờng tiêu hoá, ấu
trùng mất màng ngoài, tiếp tục phát triển, lột xác th ành ấu trùng kỳ IV, lại tiếp tục phát
triển, lột xác thành ấu trùng kỳ V và phát triển thành giun trƣởng thành (Skrjabin, 1963;
Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996).
1. 2.3. Loài Mecistocirrus digitatus
Mecistocirrus digitatus (Linstow, 1906) đƣợc phát hiện ở nhiều tỉnh (Hà Nội, Hà T
nít, Lâ m Đồng ) của Việ t Na m và ở nh iều nơ i t rên thế g iới (châu Mỹ , SNG,
Indonexia). Giun ký sinh ở dạ múi khế và đã lá sách của trâu, bò, dê, cừu.
Nguyễn Thị Lê (1996) đã mô tả (theo Nguyễn Văn Đức, 1995): cơ thể giun
221 mảnh, lớp biểu bì mỏng có vân ngang. Nang miệng nhỏ, có 6 nú m cuốn trên đó có răng
lớn.
Không có hành thực quản. Con đực dài 17,8 - 27,8 mm, rộng 0,35 - 0,51 mm.
Thực quản dài 1,40 - 1,78 mm, rộng 0,130 - 0,168 mm. Túi sinh dục có 3 thuỳ: 2 thuỳ
bên lớn và dầy, thuỳ lƣng nhỏ nhƣng đối xứng. Túi sinh dục dài 0,80 - 1,00 mm, rộng
0,70 - 0,85 mm. Ha i gai sinh dục rất mảnh và dài, chiều dài 6,32 - 7,59 mm. Con cái
dài 22,3 - 39,2 mm, rộng 0,46 - 0,64 mm. Thực quản dài 1,59 - 1,92 mm, rộng 0,14 - 0,
1 8 mm. Lỗ sinh dục dạng rãnh ngang, có cơ dầy, cách mút đuôi 0,545 - 0,743 mm.
Đuôi hình nón, dài 0,170 - 0,248 mm. Trứng hình ô van, kích thƣớc 101 - 120 x 51 -63 μm.
Vòng đời của giun M. digitatus cơ bản giống vòng đời của H. contortus. Hoàn
t hành vòng đời cần 59 - 82 ngày (Frnando, 1965). Tuổi thọ của giun là 9 - 12 tháng
(Phan Địch Lân và cs 1989; Phạ m Văn Khuê và Phan Lục, 1996).
Ngoài các loài giun xoăn chính (nhƣ đã trình bầy ở trên), các loài giun xoăn khác
ký sinh ở dạ múi khế nhƣ Ostertagia spp., Cooperia spp. cũng có vòng đời cơ bản
giống nhau và cơ bản giống với các loài giun trên; nghĩa là đều phát triển trực tiếp,
không có sự thay đổi ký chủ. Hầu hết các giun này trƣởng thành và đẻ trứng sau khi
nhiễm 3 tuần (Jorgen Han sen và cs, 1994). Đây là đặc điểm sinh học của nhiều loài
giun tròn ký sinh, chúng gây nên bệnh gọi là bệnh truyền trực tiếp (hoặc còn gọi là
bệnh giun truyền qua đất). Cũng do đặc điểm này mà giun xoăn dạ múi khế hoàn thành
vòng đời rất dễ dàng và việc phòng t rừ bệnh gặp nhiều khó khăn. Vấn đề đặt ra là phải
tìm hiểu tình hình dịch tễ của bệnh để có biện pháp tác động có hiệu quả.
2. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC CỦA CÁC B ỆNH GIUN XOĂN DẠ MÚI KHẾ
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ học các bệnh giun xoăn ký
sinh ở dạ múi khế loài nhai lại.
Bệnh giun xoăn dạ múi khế có liên quan tới điều kiện thời tiết, khí hậu, mùa vụ
và tuổi con vật. Kholosanov V. A. (1952) cho biết, bệnh giun xoăn thƣờng thấy vào
222 những năm mƣa nhiều và súc vật chăn thả trên đồng cỏ ẩm ƣớt thì nhiễm nặng hơn súc
vật ch ăn thả trên đ ồng c ỏ khô ráo. Theo t à i liệu của Ulian ov X. D. (1953) và
Bogdanov A. G (1956), gia súc mắc bệnh nhiều nhất vào mùa xuân, giảm dần vào các
tháng mùa hè, rồi lại tăng lên vào mùa thu. Súc vật tất cả các lứa tuổi đều nhiễm bệnh,
nhƣng cảm nhiễm nhiều hơn ở gia súc non và dƣới 1 năm tuổi (Skrjabin và Petrov,
1963).
Dẫn liệu của Bexxonov A. X. (1958) cho thấy, ở trên đồng cỏ, trứng và ấu trùng
không cảm nhiễm của Ostertagia ostertagi sẽ chết v ào mùa đông, còn ấu trùng cảm
nhiễm của giun này sẽ sống đƣợc mùa đông và vẫn giữ đƣợc hoạt tính. Thời gian duy trì
khả năng sống của ấu trùng cảm nhiễm của O. ostertagi trên đồng cỏ có thể tới 1 năm.
Soulsby E. J. L. (1982) cho rằng: nhìn chung, sự phát t riển của các giun xoăn họ
Trichostrongylidae ở giai đoạn sống tự do (ngoài ngoại cảnh) phụ thuộc vào điều kiện khí
hậu. Ở nƣớc Anh, ấu trùng có thể phát triển đến giai đoạn gây nhiễm trong 2 tuần, nhƣng
thƣờng thì dài hơn và phụ thuộc vào khí hậu. Súc vật nhai lại nhiễm giun ở tất cả các tháng
trong năm, nhƣng nhiễm nhiều và nặng hơn ở những tháng mùa hè ấm và ẩm. Wharton D.
A. (1982) báo cáo rằng, ấu trùng Trichostrongylus colubriformis phát triển qua 4 - 6 ngày ở
nhiệt độ 27
0
C thì thành ấu trùng gây nhiễm. Nhiệt độ tối thiểu để ấu trùng có thể tồn tại là
10 - 15
0
C. Chúng phát triển nhanh nhất trong mùa hè. ấu trùng không thể sống đƣợc ở
nhiệt độ cao và thấp quá.
Ở nƣớc ta, theo Phan Địch Lân và cs (1989), bệnh giun xoăn dạ múi khế phân bố
rất rộng, các c ơ sở chăn nuôi ở miền núi, trung du, đồng bằng đều có. Tỷ lệ nhiễm từ
30,7 - 100% Đƣờng truyền bệnh chủ yếu là ăn cỏ có lẫn ấu trùng hoặc uống nƣớc ở
các vũng có ấu trùng. Bệnh nhiễm vào mọi lứa tuổi trâu, bò, dê, cừu; nhƣng nói chung
trâu, bò, dê, cừu non mắc bệnh nặng hơn, gầy sút và suy yếu nhanh hơn và dễ chết
hơn. Trứng và ấu trùng có sức đề kháng mạnh, nhiệt độ thích hợp nhất cho trứng phát
triển là 330c. Nhƣng ở nhiệt độ đó mà độ ẩm cao (96%) thì trứng không phát triển
đƣợc. DDT 1% không diệt đ ƣợc trứng; CuSO
4
có thể diệt trứng giun trong 8 giờ và
diệt ấu trùng trong 3 giờ. Ngoài gia súc, các thú hoang nhai lại hoặc một số loài gậm
nhấm cũng nhiễm giun xoăn, vì vậy chúng có tác dụng gieo rắc mầm bệnh rất rộng rãi
trong thiên nhiên. Để biết sự phân bố giun xoăn theo mùa, Wahab - A - Rahman đã
đếm số lƣợng trứng giun ở phân dê tại các trang trại ở Penang (Malaysia). Tác giả thấy
giun xuất hiện cao điểm ở những tháng có lƣợng mƣa cao (những nhân tố khác nhƣ
nhiệt độ, độ ẩm thay đổi rất ít tron g suất thời gian nghiên cứu). Môi trƣờng nhiệt đới
ẩm ở vùng này rất thuận lợi cho sự phát triển của giun Trichostrongylus, Haemonchus
và một số giun ký sinh ở ruột (Oesophagostomum, Bunostomum). Trong đó, giống
Haemonchus là phổ biến nhất ở cả 2 trang trại (Wahab - A - Rah man, 1995).
Nghiên cứu về dịch tễ học các bệnh giun sán ở gia súc nhai lại nhỏ, Teklye -Bekele (19931 cho biết, giun tròn đƣờng tiêu hoá, giun phổi và sán lá gan là những
giun sán ký sinh chủ yếu ở gia súc nhai lại nhỏ tại những vùng sinh thái khác nhau ở
223 vùng Saharan - Châu Phi.
Tỷ lệ lây n h iễ m và t ần số xu ất h iệ n ca o đố i v ớ i c ác lo à i H. c onto rtu s,
Oes.cotumbianum, Trichostrongylus sp., Cooperia sp., trong mùa mƣa. Bệnh giun xoăn
do vậy trở nên nghiêm trọng ở những vùng ẩm, nửa ẩm và vùng trung du - miền núi của
châu Phi.
Những nơi tập trung vật nuôi và các đồng cỏ là những nơi có tỷ lệ nhiễm cao. Vì
vậy, việc nghiên cứu dịch tễ học, chiến lƣợc kiểm soát các loài giun đƣờng ruột của
súc vật nhai lại cần đƣợc tiến hành để bảo vệ và tăng số lƣợng đàn trong các tháng
mùa hè ẩm ƣớt; đồng thời điều trị bệnh giun sán ở những vật nuôi trƣởng thành và
dƣới 1 năm tuổi vào cuối mùa hè và đầu mùa đông để vật nuôi có thể không bị nhiễm
giun, hoặc tỷ lệ nhiễm tối thiểu trong các tháng mùa đông và mùa hè (Joshi B. R.,
1996).
Sau hàng loạt những nghiên cứu trên đồng cỏ về dịch tễ học, Joshi thấy rằng:
trong 18 loài giun đƣợc phát hiện thì loài Trichostrongylus spp. và Ostertagia spp. phổ biến
nhất ở súc vật nhai lại chăn thả di trú theo mùa, còn loài Haemonchus spp. phổ biến ở
súc vật nhai lại chăn thả không di trú theo mùa. Tỷ lệ nhiễm giun ở vật nuôi di trú theo
mùa cao hơn ở vật nuôi không di trú theo mùa, nhƣng số lƣợng trứng giành g phân nhìn
chung lại thấp hơn. Số lƣợng trứng giun trong phân chỉ ra rằng: giai đoạn truyền bệnh
chủ yếu là từ tháng 4 đến tháng 10 (Joshi B. R., 1996).
Tiếp theo những công trình nghiên cứu trên, Joshi B. R., và Jacobs D. E. (1997)
tiếp tục nghiên cứu về dịch tễ học của sự lây nhiễm giun tròn đƣờn g ruột ở cừu và dê.
Hai tác giả cho biết: ở Nepal có khoảng 65% số cừu và 35% số dê đƣợc chăn thả cùng
đàn. Chúng luôn đƣợc di chuyển nơi chăn thả theo mùa. Về mùa đông và những tháng
hè khô ráo, đàn dê cừu gặm cỏ ở các vùng rừng hoang, dƣới thung lũng. Trong những
tháng mùa hè có mƣa, chúng lại đƣợc chăn thả trên những đồng cỏ cao của dãy núi
Himalaya. Sau 1 năm nghiên cứu thấy tỷ lệ lây nhiễm trong năm thấp, trừ các tháng
mùa mƣa (tháng 4 đến tháng 10). Khu vực chăn thả xung quanh Kharka và những
đồng cỏ trên núi là những ổ bệnh chính. Loài Trichostrongylus spp. và Osrertagia spp.
có khả năng sống cao hơn các loài khác. Loài Haemonchus contortlls dễ bị nhiễm vào
các tháng đầu mùa hè. Khả năng nhiễm bệnh đối với từng loài tuỳ thuộc vào mùa và vị
t rí đồng cỏ. Ở những đồng cỏ cao hơn mặt nƣớc biển 2.300 m thì dê, cừu dễ bị lây
nhiễm cả 3 loài giun trên. Ở độ cao 2.300 - 3.500 m thì dê, cừu dễ nhiễm bệnh giun
Tricho strong ylus và Oste rtagia. Ở độ cao hơn n ữa ch ỉ thấy mắc bệnh do giun
Ostertagia.
Ở Việt Nam, theo Nguyễn Thế Hùng (1994), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998,
2000), tỷ lệ nhiễm giun xoăn dạ múi khế ở dê tăng lên vào vụ Hè - Thu, giảm đi vào
vụ Đông - Xuân; tỷ lệ nhiễm cao ở dê dƣới 1 năm tuổi. Bệnh phân bố rộng, các cơ sở
nuôi dê ở vùng n úi, trung du và đồng bằng đều có bệnh, tỷ lệ nhiễm từ 71,79 - 74,63%.
Từ những công trình nghiên cứu và nhận xét của nhiều tác giả, có thể thấy một điều rất
224 rõ là: "Sự tồn tại và phát triển của sinh vật (trong đó có các loài giun xoăn) tại một nơi
nào đó thƣờng phụ thuộc vào tổ hợp các điều kiện môi trƣờng, trong đó khí hậu là một
trong những điều kiện quan trọng ảnh hƣởng sâu sắc nhất" (Trần Đức Hạnh và cs,
1997).
3. ĐẶC ĐIỂM B ỆNH LÝ VÀ LÂM SÀNG CỦA B ỆNH GIUN XOĂN DẠ MÚI
KHẾ
3.1. Bệnh do Hae monchus contortus
Giun H. contortus gây tác hại lớn cho gia súc nhai lạ i. Theo Xo min xki Z. G.
(1952), Haemonchosis gây ra rối loạn nặng toàn cơ thể: tổn thƣơng đƣờng tiêu hoá, hệ
thần kinh, hệ tuần hoàn và các tuyến nội tiết. Con vật mắc Haemonchosis bị kiệt sức
nhanh, thiếu máu nặng, thấy có những biến đổi bệnh lý trong não và tuỷ sống. Skrjabin
(1963) đã giải thích nhƣ sau: sau khi xâm nhập vào dạ múi khế, H. contortus bám chắc
và chọc thủng niêm mạc, gây ra chảy máu mao mạch. Ngoài ra, nhiều giu n còn cắm
sâu đầu vào các ống dẫn tuyến trong dạ múi khế và gây viêm các ống đó. Haemonchus
hút máu ký chủ. Khi ăn máu Haemonchus thải ra độc tố đặc biệt làm ngộ độc cơ thể ký
chủ.
Khi súc vật nhiễm bệnh nặng, niêm mạc dạ múi khế bị phủ một lớp màng dày
lên, có những chỗ chảy máu. Các chất trong dạ múi khế thƣờng loãng và có màu nâu.
Ở con vật mắc bệnh thƣờng thấy dạ múi khế viêm cataz mãn tính, vì vậy lƣợng thức ăn
ở đây không đƣợc thấm đầy đủ dịch vị. Thức ăn chuyển từ dạ múi khế vào ruột ở dạng
bán nhuyễn thể nên mức hấp thu vào máu cũng giảm đi. Độc tố của giun làm cho con
vật bệnh kiệt sức, thiếu máu và bị phù. Con vật chết vì suy mòn do thiếu máu.
Hình 112. Giun xoăn bám dày đặc trên niêm Hình 113. Niêm mạc mắt trắng bệch do bị
mạc dạ múi khế nhiễm Haemonchus nặng
225 Qu á t rìn h t iế n t riển c ủa
Haemonchosis lạ i càng nặng hơn khi
con vật bị bệnh ghép cùng với những
Trichostrongylus khác. Điều này hầu
nhƣ thƣờng xuyên xảy ra, v ì theo
nguyên nhân bệnh, n gƣời ta thƣờng gọi
những bệnh đó là Trichostrongylidosis
(nghĩa là vật bị Haemonchosis ghép với
các bệnh giun xoăn khác).
Hình 114. Bò bị bệnh giun xoăn dạ múi
khê nặng (gầy, thuỷ thững dưới hầu
Trâu, bò, dê, cừu bị Haemonchus thì mệt mỏi, chậm chạ p, kiệt sức, niêm mạc thiếu
máu, có thể bị ỉa chảy xen lẫn táo bón. Súc vật non thƣờng không đứng đƣợc phải nằm
dệt. Vật dễ chết nếu mắc bệnh nặng.
Nguyễn Trọng Nội (1967) báo cáo về bệnh giun xoăn ở dạ dày và ruột dê giống
Mông Cổ nhập nội, do các loài Haemonchus contortus, Trichostrongylus và
Oesophagostomllm. Có trƣờng hợp đã thấy 1200 - 1500 Haemonchus ở dạ múi khế 1 dê
(cao nhất có thể đến 4 - 5 nghìn giun). Theo tác giả, khi có đến 600 giun trong cơ thể dê
đã thấy các triệu chứng: thiếu máu , gầy sút, rối loạn tiêu hoá, lúc đi tả lúc đi táo, kém ăn, đi
tụt lại sau đàn; con đực nhảy kém. Bệnh thấy ở tất cả các lứa tuổi, nhƣng nặng nhất ở dê
dƣới 1 năm tuổi. Bệnh phát mạnh vào mùa Hè - Thu.
Những biến đổi bệnh lý và lâm sàng ở súc vật bệnh còn chịu ảnh hƣởng của chế độ
chăm sóc nuôi dƣỡng. Xomin xki Z. F. (1952) cho biết, triệu chứng và những biến đổi
bệnh lý của Haemonchosis thể hiện ở những gia súc đƣợc nuôi dƣỡng kém rõ rệt hơn là
những con vật đƣợc nuôi dƣỡng bình thƣờng.
Mất máu nên cơ thể bị thiếu máu nghiêm trọng là triệu chứng thấy rất rõ ở gia súc
mắc bệnh do Haemonchus. Ngƣời ta đã tính đƣợc là: 2000 giun H. contortus hút mất 30
ml máu một ngày, đồng thờ i còn gây xuất huyết ở dạ mú i khế con vật. Andrews
(1942) đã xác định lƣợng máu thả i theo phân ở hai cừu con nhiễm liều chí tử ấu trùng
Haemonchlls. Sau khi nhiễm 6 - 10 ngày, phân bắt đầu có máu. Trong 10 ngày tác giả
tính đƣợc ở một con mất 1 ,5 lít máu, còn con kia mất 2,4 lừ máu trong phân (Dẫn theo
Skrjabin, 1963; Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982; Phan Địch Lân và cs, 1989; Phạm Văn
Khuê và cs, 1996).
Về biểu hiện lâm sàng của con vật bị Haemonchosis, Phan Địch Lân cho biết,
ngoài các triệu chứng thiếu máu, kém hoạt động, ăn uống giảm sút, kiết lỵ và táo bón xen
kẽ, con vật còn bị thuỷ thững dƣới cổ, trƣớc họng và ngực. Biểu hiện rõ rệt nhất là ở những
chỉ số máu: giảm hồng cầu, giảm huyết sắc tố, bạch cầu tăng. Khi quá yếu, con vật
thƣờng chết.
Theo Johannes Kaufmann (1996), H. contortus là một trong những ký sinh trùng
226 phổ biến nhất ở súc vật nhai lại. Giun này có thể giết chết rất nhanh những con vật
non. Khi nhiễm nặng, con vật có thể chết đột ngột khi thể trạng vẫn khoẻ - “bệnh cấp
tính". Mặc dù chƣa có trứng giun trong phân, nhƣng có một số lƣợng lớn giun chƣa
trƣởng t hành hút máu là m cho ký chủ chết trƣớc khi ký sinh trùng phát triển thành
giun trƣởng thành. Những bệnh tích chủ yếu là: xác con vật gày còm, nhợt nhạt. Trong
xoang ngực và xoang bụng thƣờng có nƣớc màu vàng. Trong dạ múi khế có số lƣợng
lớn Haemonchus (trên 1000) phủ kín n iê m mạc nhƣ một màng dày, hoặc giun lẫn
trong các chất chứa ở dạ múi khế là m cho chất chứa có màu nâu. Ngoài số lƣợng
Haemonchus tìm thẩy, trong dạ múi khế còn thấy nhiều Trichostrongyluss khác kích
thƣớc rất nhỏ (0,5 - 15 c m).
Có thể gặp Haemonchosis ở ba dạng hay là ba giai đoạn. Skrjabin (1963) đã phân biệt
ba giai đoạn đó nhƣ sau:
- Trong giai đoạn đầu, ở dạ múi khế có số lƣợng Haemonchus không nhiều lắm
(một con đến một vài tră m con). Trƣờng hợp này triệu chứng lâm sàng không xuất
hiện.
- Trong giai đoạn hai, triệu chứng lâm sàng và bệnh tích (biến đổi giải phẫu bệnh lý)
cũng chƣa thể hiện rõ rệt. Số lƣợng giun nhiều hơn ở giai đoạn một.
Giai đoạn một và hai của Haemonchosis không thể coi là nguyên nhân làm vật
chết, nếu nh ƣ không ghép cùng với các bệnh khác.
- Giai đoạn ba là giai đoạn con vật thể hiện triệu chứng điển hình, số lƣợng giun
nhiều hơn hai giai đoạn trên.
Nguyễn Thị Kim Lan (2000) đã theo dõi 41 dê bị bệnh giun xoăn dạ múi khế, thấy:
82,93% thiếu máu nặng, 100% gầy xơ xác, 63,41% ỉa lỏng liên miền, 36,59% ỉa chảy xen
táo bón từng đợt, 39,02% bị thuỷ thông ở ngực, bụng và 4 chân. Mổ khám dê chết do giun
xoăn dạ múi khế thấy, niêm mạc dạ múi khế phủ màng dầy, có nhiều chỗ chảy máu. Chất
chứa trong dạ múi khế thƣờng loãng, màu nâu. Dạ múi khế và ruột non viêm cataz mãn
tính, niêm mạc thuỷ thững, có nhiều mụn loét. Trong chất chứa dạ múi khế và trên niêm mạc
có nhiều giun xoăn ký sinh.
Theo Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2002), dê bị bệnh giun xoăn dạ
múi khế thƣờng thiếu máu, kém hoạt bát, ăn uống sút kém, ỉa chảy và táo bón xen kẽ.
Thuỷ thững dƣới cổ, trƣớc bụng, ngực và 4 chân. Con vật gầy yếu dần, đi lại khó khăn,
hay bị bỏ rơi sau đàn. Khi quá gầy yếu và thiếu máu, con vật chết.
3.2. Bệnh do các loài giun xoăn khác ở dạ múi khế
Một số loài g iun thuộc giống Trichostrongylus, Ostertagia, Cooperia,
Mecistocirrus ký sinh ở dạ múi khế có thể gây bệnh cho gia súc nhai lại, hoặc hỗn hợp nhiều
loài, hoặc riêng lẻ từng loài.
227 Bệnh lý của Trichostrongylosis phụ thuộc vào cƣờng độ cảm nhiễm. Ngƣời ta đã biết
là gia súc bị chết khi nhiễm tới 60 -120 nghìn ấu trùng cảm nhiễm
Trichostrongylus axei. Những con vật non nhiễm mức độ nặng chậm lớn và kém phát
triển. Bệnh chia làm hai th ời kỳ. Thời kỳ thứ nhất - cấp tính, kéo dài gần 6 tuần (ở thời kỳ
này một số con non bị cảm nhiễm nặng, ngừng phát triển, sút cân và chết. Mổ khám thấy dạ
múi khế bị viêm cấp tính có kèm theo những nết loét). Thời kỳ thứ hai - mãn tính, triệu
chứng giảm dần, con vật lên cân, những nết loét trong dạ múi khế dần dần lành thành sẹo.
Có những tài liệu cho biết, giun Trichostrongylus gây bệnh yếu hơn Haemonchus
(Skrjabin và Petrov, 1963).
Theo Drozd z và Malc zewski (1967), vai trò gây bệnh của các loài giun thuộ c
giống Trichostrongylus nhƣ sau: trong giai đoạn ấu trùng, giun xâm nhập niêm mạc dạ
múi khế và tá tràng, gây tác động đầu độc ở cục bộ và toàn thân, biểu thị bằng sự thiếu
máu dần, ỉa chảy và suy nhƣợc ở con vật bệnh. Beker và Douglas cho biết, bệnh d o
Trichostrongylus có triệu chứng thiếu máu là do tuổi thọ của hồng cầu ngắn đi 5 lần và
tuỷ xƣơng không còn khả năng tái sinh hồng cầu để bù lại. Nhƣng nếu súc vật đƣợc
nuôi tốt thì không có những tổn thƣơng về máu. Vì lý do này mà một số nhà nghiên
cứu cho là, sự thiếu máu trong bệnh do Trichostrongylus ở gia súc nuôi dƣỡng kém có
thể là do giun chiếm đoạt những nguyên tố vi lƣợng có trong ruột ký chủ. Khi cảm
nhiễm nặng, thấy viêm cấp tính niêm mạc dạ múi khế, trên đó có những tổn thƣơng
hình miệng phễu đƣờng kính 0,25 - 20 mm, bờ trắng, lồi. Súc vật ốm giảm uống nƣớc,
tăng cân rất ít hoặc sút cân.
Hoste H. và Chartier C. (1993) đã làm thí nghiệm về ảnh hƣởng của giun xoăn dạ
múi khế đến khả năng sản xuất sữa của dê. 48 con dê ở tháng thứ 2 của thời kỳ sản
xuất sữa đƣợc chia thành 2 nhóm. Nhó m 1 đƣợc gây nhiễm 5.000 ấu trùng
Haemonchus và 2.000 ấu trùng Trichostrongylus. Nhóm 2 không gây nhiễm giun. Các số
liệu về ký sinh trùng, về huyết học, về sữa đƣợc thu thập 2 tuần 1 lần trong vòng 5 tháng.
Tình trạng cơ thể dê đƣợc cho điểm qua mỗi thời điểm tƣơng ứng. Kết quả là nhóm dê 1
đã biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Giun xoăn gây bệnh và làm giảm lƣợng sữa của dê
nhóm 1 từ 2,5 - 10% so với nhóm đối chứng. Tác giả cũng phát hiện ra ảnh hƣởng khác
nhau của giun đến lƣợng sữa của những dê cho sữa cao và những dê cho sữa thấp: với 6
con dê cho sữa cao ở thời điểm đầu thí nghiệm, lƣợng sữa giảm từ 13 đến 25,1% và dê
gầy đi. Còn 6 dê có lƣợng sữa thấp ở thời điểm đầu thí nghiệm thì lƣợng sữa giảm ít hơn
(mặc dù gây nhiễm ấu trùng giun với số lƣợng nhƣ nhau). Theo những số liệu về ký sinh
trùng học và bệnh lý học, tác giả kết luận : những dê cho lƣợng sữa cao khả năng chống
lại ký sinh trùng kém hơn và chịu tác động gây bệnh nghiêm trọng hơn những dê cho
l ƣợng sữa thấp.
Trong bệnh do Cooperia, ngƣời ta thấy quá trình viêm ở ruột non dẫn đến tổn
thƣơng niêm mạc, trên niêm mạc hình thành những hạt màu trắng. Tuyến lâm ba bên
cạnh bị teo. Tác động toàn thân của giun Cooperia - theo Andrews (1938) - biểu hiện
228 bằng sự trao đổi vật chất tăng nhanh ở súc vật bệnh, kèm theo giảm đồng hoá thức ăn làm
cho con vật bị giảm thể trọng. Những gia súc gây nhiễm thí nghiệm dù nuôi tốt hơn
những con đối chứng nhƣng vẫn tăng trọng ít (Drozdz và Malcrewski, 1967; Phạm Văn
Khuê và Phan Lục, 1996).
Theo Skrjabin và Petrov (1963), khi con vật bị bệnh nặng, Cooperia có thể gây ra
viêm niêm mạc ruột. Một số giun Cooperia (Cooperia punctata) có thể xâm nhập vào
thành ruột, gây viêm và tạo thành áp xe ruột. Các hạch lâm ba gần đó bị sƣng, thoái hoá
thành bã đầu. ấu trùng giun khi cƣ trú trong niêm mạc ruột tạo thành những hạt ký sinh, kích
thƣớc từ 3 - 5 tâm. Vật nhiễm Coopena nặng bị rối loạn chức năng tiêu hoá, ỉa chảy và kiệt
sức, có thể chết vì bệnh quá nặng.
Mamedov A. K. (1959) thấy rằng, ở trong tuyến hạ vị, Coopena punctata bám chắc
sâu vào nhu mô bằng phần trƣớc của chúng, chứng tỏ là có sự cƣ trú ngẫu nhiên của giun
này trong tuyến hạ vị.
Bệnh lý và lâm sàng của bệnh do Ostertagia ở loài nhai lại còn đƣợc nghiê n cứu
ít. Khi phát triển ở trong thành dạ múi khế, ấu trùng Ostertagia tạo thành các hạt trong
niêm mạc. Ostertagia trƣởng thành cũng có thể phá huỷ độ nguyên vẹn của niêm mạc
dạ múi khế. Những tổn thƣơng về cơ học của niêm mạc dạ múi khế, cũng nhƣ tác động
của độc tố ký sinh vật đã dẫn đến những quá trình viêm và gây rối loạn chức năng của
cơ quan tiêu hoá. Triệu chứng bệnh phụ thuộc vào cƣờng độ cảm nhiễm. Trƣờng hợp
mắc bệnh nhẹ, triệu chứng có thể không thể hiện. Khi nhiễm nặng thấy có hiện tƣợng
viêm dạ dày ruột do hàng chục nghìn Ostertagia gây ra. Thƣờng thấy có hiện tƣợng ỉa
chảy, mệt mỏi, thiếu máu các niêm mạc, kiệt sức. Con vật non chậm lớn, lông bết và
rụng.
Trƣờng hợp quá nặng vật bệnh nằm liệt một chỗ và có kh i chết (Skrjabin và
Petrov, 1963).
Theo Soulsby (1982), sự biến đổi bệnh lý của bệnh do Ostertagia có thể chia
thành 3 gia i đoạn:
- Gia i đoạn thứ nhất kể từ khi nhiễm ấu trùng đến 17 ngày sau khi nhiễm. Trong giai
đoạn này những tổn thƣơng đƣợc sinh ra do sự phát triển của ấu tr ùng ở trong các tuyến dạ
dày.
- Giai đoạn thứ hai từ 17 - 35 ngày sau khi nhiễm. Trong giai đoạn này có sự phá huỷ
của giun trƣởng thành từ các tuyến tiêu hoá ở dạ dày và có sự biến đổi các tuyến ở xung
quanh, làm thay đổi chức năng của các tuyến tiêu hoá .
- Gia i đoạn thứ ba từ 35 ngày -63 hoặc 70 ngày sau khi nhiễm. Ở giai đoạn này, cấu
trúc và chức năng của các tuyến bị mất đi dần dần.
Những biến đổi bệnh lý ở ba giai đoạn trên dẫn đến chức năng tiêu hoá của con vật
rối loạn, vật ỉa chảy, gày yếu, thiếu máu nặng.
229 Mecistocirrus digitatus cũng sống bằng máu ký chủ nhƣ nhiều loài giun xoăn
khác. Vai trò gây bệnh của nó (theo Ivaszkin, 1949) là: giun lấy dinh dƣỡng bằng máu
và phá hoại niêm mạc nơi g iun sống, gây viêm niê m mạc, do đó gây nên n hững rối
loạn tiêu hoá. bệnh này làm con vật kiệt sức, giảm hiệu suất và thƣờng dẫn đến chết.
Skrjabin và Petrov (1963) cho biết, giun Mecistocirrus digitatus là loài giun ăn
máu. Bệnh là m g ia súc non kém phát triển và thƣờng thấy chết vào mùa xuân. Mổ
khám thấy hiện tƣợng viêm cataz dạ múi khế, niêm mạc bị xuất huyết điểm hoặc xuất
huyết vùng.
Nhiều tác giả khác (Trịnh Văn Thịnh, 1978; Trịnh Văn Thịnh, 1982; Phạm Văn
Khuê và Phan Lục, 1996; Phạm Sỹ Lăng và cs, 2002) cũng thống nhất với các tác giả trên
về bệnh lý và lâm sàng của Mecistocirrosis.
4. CHẨN ĐOÁN B ỆNH GIUN XOĂN DẠ MÚI KHẾ
Nghiên cứu về các phƣơng pháp chẩn đoán bệnh do các loài giun thuộc họ
Trichosrongylidae gây nên, nhiều tác giả khẳng định: không thể chẩn đoán chính xác bệnh
nếu không tiến hành các phƣơng pháp tìm trứng giun trong phân.
Theo Skrjabin và Petrov (1963), Trịnh Văn Thịnh (1963), nên kết hợp quan sát
triệu chứng trên con vật còn sống với xác định trứng bằng cách soi phân. Triệu chứng
có thể thấy là viêm dạ dày ruột mãn t ính, ỉa chảy xen táo bón. Soi phân bằng phƣơng
pháp phù nổi dễ thấy trứng. Mổ khám con vật chết cũng cần phải làm để tìm giun ở dạ
múi khế và tá tràng; thấy đƣợc ngay những loài lớn (2 - 3 cm), còn những loài nhỏ (4 -5 mƣa thì phải dùng kính lúp hoặc kính hiển vi (phóng đại 20 - 30 lần). Trịnh Văn
Thịnh cho biết: ký sinh trùng thƣờng dễ thấy, vì có hàng trăm, hàng nghìn giun thuộc
nhiều loài cùng ở lẫn với nhau. Cũng cần chú ý đến sự lƣu hành của bệnh: bệnh rất
nặng, thƣờng làm 1/2 số súc vật mắc bệnh chết, 1/2 số còn lại bần huyết đến nỗi giá trị
giảm tới 50%, khi mổ thịt thƣờng phải giữ lại vì gầy rạc. Bệnh đáng sợ hơn ở súc vật
nuôi đàn (dê, cừu), vì chỉ cần đƣa 1 con ốm vào là đủ làm lây bệnh sang cả đàn. Con
non dị cảm với bệnh hơn con trƣởng thành. Các giống nhập nội vào nƣớc ta dễ mắc
bệnh nặng và dễ chết. Đặc điểm dịch tễ học của bệnh là những căn cứ góp phần xác
định chính xác hơn.
Trịnh Văn Thịnh và cs (1982), Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) cho biết, để
chẩn đoán bệnh do Haemonchus và Mecistocirrus không thể căn cứ vào triệu chứng
lâ m sàng, vì đối với con vật còn sống, triệu chứng lâ m sàng không điển hình. Mặt
khác, trứng khó phân biệt với các loài khác nên khó xác định. Theo các tác giả thì có
thể xét nghiệ m phân theo phƣơng pháp s au: nuôi trứng cho nở thành ấu trùng (lấy
phân con vật nghiền nát, trộn lẫn với đất vô trùng, cho vào (ra lồng, giữ cho độ ẩm 60 -70%, nhiệt độ 25 - 30
0
C, pH : 6,8 - 7,4; nuôi trong 4 - 5 ngày. Sau đó phân lập ấu
trùng theo phƣơng pháp Baerman, xe m kính hiển vi t ìm ấu trùng). Whitlock H. V.
(1956) đề nghị kỹ thuật cấy phân dê, cừu nhƣ sau: cho xuống đáy 1 lọ nhỏ một lớp
230 bông dầy 1 cm, đổ đầy phân đã nghiền nát vào lọ. Lấy ống hút bơm nƣớc chảy theo bờ
trong của lọ cho đến khi ƣớt bông ở đáy. Cho lọ nhỏ này vào 1 cái lọ to và đổ nƣớc vào
lọ to cho đến khi mặt nƣớc xâm xấp ngang miệng cái lọ nhỏ thì thôi. Đậy lọ to lại và cho
vào tủ ấm 27
0
C trong 8 ngày. Những ấu trùng nở ra sẽ bò lên miệng lọ nhỏ bên trong và
tràn vào nƣớc ngoài lọ to Lấy nƣớc ấy cho vào ống nghiệm, để lắng cặn trong 3 giờ. Gạn
nƣớc trên đi, tìm ấu trùng trong cặn.
Sau khi lấy đƣợc ấu trùng sống và rất di động, phải giết ấu trùng bằng cách thêm
vào nƣớc chứa ấu trùng vài giọt dung dịch Iod + Ioduar kèm có 2% Iod (Iod 2g +
Iod uar kim 4g + Nƣớc 100 ml; bắt đầu hoà tan Ioduar kém trong 20 ml nƣớc, thêm Iod
bột và khi Iod đã tan hết thì thêm cho đủ nƣớc); hoặc làm nóng vừa phải để giết ấu
trùng. Theo Premvati (1958), nhúng ấu trùng vào một dung dịch (Biểu cresyl + gồm
arabic + formol nhẹ) trong 20 - 25 phút, có thể làm cho dễ quan sát những đặc điểm về
cấu tạo. Kiểm tra dƣới kính hiển vi với độ phóng đại 75 - 100 lần và chú ý những đặc
điểm sau để chẩn đoán.
- Có hay không có vỏ bọc ấu trùng và số lƣợng các vỏ bọc ấy.
- Chiều dài của ấu trùng (kể cả vỏ).
- Chiều dài của đuôi (đo từ hậu môn đến điểm chót của thân thể).
- Hình dạng đuôi, vỏ của ấu trùng.
- Số lƣợng và hình thái các tế bào ruột...
(Trịnh Văn Thịnh, 1963)
Phƣơng pháp chẩn đoán Trichostrongylosis, Ostertagiosis, Cooperiosis cũng tiến hành
tƣơng tự Haemonchosis và Mecistocirrosis (Skrjabin, 1963; Trịnh Văn Thịnh, 1963;
Trịnh Văn Th ịnh và cs, 1982; Soulsby, 1982; Phạ m Văn Khuê và Phan Lục, 1996;
Johanes Kaufmann, 1996; Urquhart, 1996; Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 19 99; Phan Địch
Lân và Nguyễn Thị Kim Lan, 2002).
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) đã ghi lại hình thái ấu trùng cảm nhiễm của các loài giun
xoăn chính ở dạ múi khế (theo Poliakov, 1953) nhƣ sau:
231 Nhƣ vậy, để chẩn đoán các bệnh giun xoăn trên con vật sống, có thể áp dụng hai
phƣơng pháp chẩn đoán là chẩn đoán lâm sàng và chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
Chẩn đoán phòng thí nghiệm lại gồm: nghiên cứu định tính và nghiêm cứu định lƣợng.
Nghiên cứu định tính nhằm xác định có hoặc không có các loài giun xoăn dạ múi khế
ký sinh: tìm kiếm các cá thể trƣởng thành, trứng hoặc ấu trùng trong phân con vật. Đây
là phƣơng pháp thông dụng để đánh giá tình hình nhiễm ở các đàn gia súc nhai lại.
Nghiên cứu định lƣợng nhằm xác địn h số lƣợng trứng và ấu trùng giun xoăn dạ múi
khế trong phân để đánh giá mức độ cảm nhiễ m và hiệu quả của một loại thuốc tẩy.
Theo nhiều tác giả, có thể dùng phƣơng pháp đếm trứng Stoll với dung dịch NaOH 0,1
N (tốt nhất nên thực hiện vài lần để lấy số trung bình), hoặc phƣơng pháp Mc. Master
với buồng đếm Mc. Master và dung dịch Nhét bão hoà (hoặc dung dịch đƣờng bão
hoà). Từ đó tính ra trứng giun xoăn trong 1 gam phân (Trịnh Văn Thịnh, 1963; Trịnh
Văn Thịnh và cs, 1982; Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996; Nguyễn Thị Lê và cs,
1996; Jorgen Han sen và Brian Perry, 1994...).
Jorgen Han sen và Buôn Perry (1994) cho biết, mức độ nhiễm (nhẹ, trung bình,
lặng) các loài giun xoăn ở dạ múi khế nhƣ sau:
- Theo số lƣợng trứng giun đếm đƣợc trong 1 gam phân
232 Mức độ nhiễm (trứng/gam phân)
Ký sinh trung
Nhiễm hỗn hợp
Nhiễm hỗn hợp không có Haemonchus
Haemonchus
Trichostrongylus
Nhẹ Trung bình Nặng
50 - 800 800 - 1200 > 1200
300 - 800 800 - 1 000 > 1000
100 - 2000 2000 - 7000 > 7000
100 - 500 500 - 2000 > 2000
- Theo số lƣợng giun trên 1 con vật (qua mổ khám)
Mức độ nhiễm (số giun/con)
Ký sinh trung
Haemonchus
Trichostrongylus
Nhẹ Trung bình Nặng
1 - 500 500 - 1500 > 1500
1 - 1000 1000 - 10000 > 10000
Ngoài các phƣơng pháp trên, đối với g ia súc nhai lại còn sống, có thể chẩn đoán
bằng phƣơng pháp miễn dịch học.
Kháng nguyên chẩn đoán chế từ giun trƣởng thành, ấu trùng hoặc dịch trong cơ thể
ấu trùng. Có thể pha loãng thành các nồng độ khác nhau từ l: 5000 đến l: 10.000. Dùng
kháng nguyên tiêm trong da, tiêm dƣới da, nhỏ mắt, là m phản ứng lắng cặn, phản ứng
kết hợp bổ thể....., nhƣng thƣờng dùng phƣơng pháp tiêm trong da (tiêm nội bì). Liều tiê m
kháng nguyên thƣờng dùng là 0,1 - 0,5 ml. Sau khi t iê m 3 - 15 phút, theo dõi sự biến
đổi ở nơi tiê m. Nếu nơi tiê m sƣng to, xung quanh đỏ, đƣờng kính khoảng 2 - 4 em thì
phản ứng dƣơng tính, ngƣợc lại là âm tính (Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982; Phạm Văn Khuê
và Phan Lục, 1996). Hiện nay, có thể chẩn đoán bệnh giun sán bằng một số phƣơng pháp
nhƣ phƣơng pháp miễn dịch huỳnh quang, miễn dịch men ELISA.... Tuy nhiên, các
phƣơng pháp này còn ít đƣợc sử dụng trong thú y mà chủ yếu đƣợc dùng trong y học
(Nguyễn Thị Lê và cs, 1996).
5. PHÒNG VÀ TRỊ B ỆNH GIUN XOĂN DẠ MÚI KHẾ Ỏ GIA S ÚC NHAI LẠI
5.1. Điều trị bệnh
Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, chúng ta đã thấy vai trò gây bệnh của những
giun tròn thuộc họ Trichostrongylidae là rất nghiêm t rọng. Vì vậy, cần có các biện
pháp điều trị hiệu quả.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1963), có thể áp dụng kết hợp 3 biện pháp trong chữa
Trichostrongylidosis. Đó là:
- Cách ly súc vật ốm và tẩy giun kịp thời bằng các thuốc: CUSO4 toáng dịch
1/100 trong nƣớc mƣa), liều 15 - 150 ml/con (tuỳ theo lứa tuổi và trạng thái sức khoẻ
con vật); hoặc dùng thuốc Phenothiazin (0,2 g/kgTT t râu, bò; 0,5 g/kgTT dê, cừu)
233 trong 2 ngày. Thuốc có tác động nhiều nhất đến giống Haemonchus.
- Tránh không cho nhiễm bệnh trở lại bằng cách không chăn lại vào đồng cỏ đã
nhiễm mầ m bệnh trong 1 năm.
- Bồi dƣỡng con vật ốm.
Skrjabin và Petrov (1963) xác định, vấn đề chữa bệnh giun xoăn dạ múi khế gia
súc nhai lại phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển của ký sinh vật. Khi thấy bệnh ở
giai đoạn ba thì cần tiến hành chữa cho cả đàn, không phụ thuộc vào mùa vụ nào. Khi
thấy giai đoạn hai xuất hiện, cần phải chọn những con ốm và những con nghi mắc
bệnh ra để chữa, không phụ thuộc vào thời gian nào. Khi thấy bệnh ở giai đoạn một thì
tiến hành tẩy giun theo kế hoạch mùa thu và mùa xuân, vào thời gia n nuôi nhất. Để
chữa bệnh, dùng Phenothiazin, cho uống dƣới dạng viên lớn hoặc nƣớc nhũ tƣơng.
Các chất để làm nhũ tƣơng có thể là dung dịch Gelatin 1%, bột bentonit.
Voron xov X. A. (1953) đề nghị, nên dùng Phenothiazin ở dạng 10% nƣớc nhũ
tƣơng. Để ch ế thuốc, đầu tiên cho 1 kg Phenothiazin vào thùng rồi cho thêm 600 ml
nƣớc ấm, quấy đều bằng tay đeo găng cho đến khi tạo thống dạng sữa đặc. Đổ thêm
nƣớc đến 10 lít, quấy đều, lọc qua một lớp vải màn. Huyễn dịch trƣớc khi dùng lắc kỹ,
cho uống bằng ống cao su hay cho bú bằng chai. Phƣơng pháp dùng Phenothiazin nói
trên làm giảm nhẹ sức lao động rất nhiều khi tiến hành tẩy đại trà cho gia súc nhai lại.
Trƣớc khi dùng Phenothiazin không cần phải kiêng ăn, và sau khi uống thuốc này cũng
không cần uống thêm thuốc tẩy, nhƣng sau khi dùng thuốc phải cho con vật nhịn đói
trong vòng 3 giờ.
Drozdz và Malcrewski (1967) cho rằng, Phenothiazin là một trong những thuốc
căn bản nhất và thƣờng đƣợc sử dụng để chống những bệnh do ký sinh vật ở dạ dày,
ruột gia sú c nhai lại. Thuốc này sử dụng dƣới hình thức dung dịch không bền vững
trong nƣớc, hoặc hình thức viên, nang, bánh...., nhƣng thƣờng dùng trộn vào thức ăn,
không cần nhịn ăn và dùng thuốc tẩy. Tác giả cho là Phenothiazin tác dụng tốt hơn với
giun Haemonchus, Trichostrongylus, nhƣng với Cooperia và Ostertagia thì thuốc có
tác dụng yếu Thuốc cũng có tác dụng khác nhau với các giai đoạn phát triển khác nhau
của giun. Nói chung, thuốc này tác dụng yếu với giun chƣa trƣởng thành, điều đó dẫn
đến sự cần thiết điều trị nhắc lại. Phenothiazin tƣơng đối ít độc, nhƣng những loài gia
súc nhai lại khác nhau phản ứng với thuốc khác nhau. Dê nhạy cảm nhất với thuốc, bò
ít nhạy cảm hơn, còn cừu lại chịu đƣợc một liều tới 400g. Thuốc thải trừ theo đƣờng
mật , nƣớc tiếu và sữa trong 48 giờ đầu và kéo dài 3 - 5 ngày. Ngoài ra, các thuốc
Ronnel, Trolen (liều 100 mg/kgTT) rất hiệu nghiệm với Haemonchus.
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982); Phan Địch Lân và cs (1989); Phạm Văn
Khuê và cs (1996), có thể dùng các thuốc sau đ iều trị bệnh giun xoăn dạ dày và ruột loài
nhai lại:
- Phenothiazin: hiệu quả tốt, liều 0,2 g/kgTT (bò, trâu), 0,5 - 1 g/kgTT (dê, cừu).
234 Có thể trộn lẫn thuốc với nƣớc cháo đun nóng, nồng độ 2,5 - 3%, cứ 100 mi nƣớc cháo trộn
với 10 g thuốc.
- Dung dịch sulfat đồng 1% cũng có tác dụng với giun. Liều dùng:
Gia súc nhỏ: 15 - 20 ml/con
Gia súc trƣởng thành: 80 - 150 ml/con
Đối với dê, dùng liều thấp hơn (dê lớn không quá 60 mi).
Đối với bê, dùng liều 2 - 3 ml/kgTT.
Trong thời gian chăn dắt ngƣời ta dùng liều thuốc nhỏ: sulfat đồng với muối ăn, theo
tỷ lệ l: 100; sulfat đồng với Phenothiazin và muối, tỷ lệ l: 5:100 cho ăn trong cả thời gian
chăn dắt, nếu thời tiết nóng thì ngừng độ 2 - 4 tuần.
Khi pha sulfat đồng cần chú ý pha với nƣớc cất hoặc nƣớc mƣa sạch, không dùng
dụng cụ kim loại, pha xong dùng ngay. Cho uống thuốc qua ống cao su một đầu có phễu,
không để thuốc lọt vào khí quản. Nếu con vật trúng độc, cho ăn trứng gà hoặc uống 5 -10 g Magie oxyt (MgO).
Jorgen Han sen và Buôn Perry (1994) cho biết, những loại thuốc có tác dụng điều trị
giun và cả ấu trùng giun trong cơ thể cừu là: Albendazole, Febantel, Fenbendazole,
Oxfendazole, Levamisole và Ivermectin.
Johanes Kaufmann (1996) cũng cho biết những hoá dƣợc có tác dụng diệt giun
xo ăn dạ d ày - ruột ở trâu, bò và cừu: Albendazo le, Febantel, Fenbendazole ,
Ivermectin, Levamisol, Netobimin, Morantel tartrate, Oxfendazole.
Cayo mba F. L. (1989) kiể m tra phân những dê đƣợc tẩy giun sán bằng thuốc
Valba zen sau 7 ngày, kết quả nhƣ sau:
- Những dê dùng liều 0,5 ml: đếm đƣợc 300 trứng/1 g phân.
Những dê dùng liều 0,3 ml: đếm đƣợc 900 trứng/1 g phân
- Những dê dùng liều 0,1 ml: đếm đƣợc 1.200 trứng/1 g phân.
Sự khác nhau về kết quả tẩy giữa các nhóm dê là rất rõ rệt ép < O,01). Tác giả kết
lu ận: thuốc Va lbazen với liều cao (0,5 ml/kgTT dê) có hiệu lực tẩy cao hơn với nhiều
loại giun sán nhƣ Fasciola hepatica, Haemonchus contortus, Strongyloides papillosus,
Monieziaexpansa.
Kieran P. J. (1994) nghiên cứu và cho thấy, thuốc Moxidectin với liều chỉ định là
0,2 mỏ!kim có thể tránh đƣợc một số chủng giun tròn ở loài nhai lại mà những chủng
này đã thể hiện sự kháng lại thuốc Ivermectin. Thuốc Moxidectin tỏ ra có khả năng
phòng chống tốt hơn với cả 3 giống giun phổ biến là Haemonchus, Ostertagia và
Trichostrongylus. Tác giả khuyến cáo, trong những chƣơng trình điều trị chiến lƣợc,
nên dùng Moxidectin để giảm những rủi ro về sự tăng khả năng kháng lại thuốc của
235 giun. Theo Nguyễn Ph ƣớc Tƣơng (1994), t huố c có t ác dụ ng đ iề u t rị
Trichostrongylidosis (tác dụng với cả giun trƣởng thành và còn non, đồng thời làm giả m
sức sống của trứng giun trƣớc khi bài xuất ra ngoài), gồm:
- Albendazole : liều 5 - 10 ml/kgTT. Cho uống dạng nhũ tƣơng dầu.
- Asuntol : liều 8 mg/kgTT. Cho uống.
- Fenbendazole : liều 5 ml/kgTT. Cho uống
- Levamisole : liều 7,5 mg/kgTT. Cho uống.
- Mebendasole : liều 15 - 20 mglkgTT. Cho uống
- Mebenvet : liều 150 - 200 mg/kgTT. Cho uống.
- Oxfendazole : liều 5 mg/kgTT. Cho uống.
- Oxibendazole : liều 10 - 15 mg/kgTT. Cho uống.
Phạm Khắc Hiếu và Lê Thị Ngọc Diệp (1997) cho biết: Phenothiazin,
Thiabendazole, Tetramisole... là những thuốc có hiệu quả tẩy giun xoăn ký sinh ở dạ dày
ruột loài nhai lại rất tốt. Phenothiazin có tác dụng tốt với giun trƣởng thành n hƣng tác dụng
yếu với ấu trùng và giun non. Do đó, sau 4 tuần cần điều trị lại. Dùng liều không quá 20
- 25 gam/1ần. Nếu dùng quá liều và kéo dài là m cho con vật bị thiếu máu, bỏ ăn, thiếu
sắc tố trên da và dẫn tới viêm hoá sừng (Keratitis). Thiabendazole là thuốc tƣơng đối
mớ i, có tác dụng rất tốt với giun Haemonchus, Ostertagia, Trichostrongylus,
Cooperia.... Có thể dùng liều chung là 50 - 100 mg/kgTT. Thuốc Telramisole có hiệu
lực tẩy với cả giun trƣởng thành và ấu trùng, cho uống liều 15 mgl kgTT hoặc tiê m
dƣới da dung dịch 3 - 10%.
Dùng thuốc tẩy giun xoăn dạ múi khế cho dê, Nguyễn Thị Kim Lan (2000) đã báo
cáo kết quả nhƣ sau: Thuốc Niclosa mid - tetra misole B (liều 66 mg lkgTT),
Oxfendazole (liều 5 mglkgTT), Levamisole (liều 7 mg/kgTT), Mebe nvet (liều 130
mg/kgTT) và Vennitan (liền 35 ml/kgTT) có hiệu lực tẩy sạch giun xoăn dạ múi khế
tƣơng ứng là: 97,14%; 100%; 97,5%; 96,77% và 96,67%.
5.2. Vấn đề phòng bệnh
Theo quan điểm của Skrjabin (1944), muốn diệt trừ bệnh giun sán, phải dự phòng có
tính chất chủ động: dùng tất cả các phƣơng pháp cơ giới, vật lý (ánh sáng, độ nóng), hoá
học (thuốc), sinh vật học (sinh vật nọ tiêu diệt sinh vật kia) để tiêu diệt giun sán trên cơ
thể ký chủ, tiêu diệt giun sán ở ngoại cảnh, tiêu diệt giun sán ở tất cả c ác giai đoạn phát
dục (trứng, ấu trùng, giun sán trƣởng thành).
Trên cơ sở đó, việc phòng bệnh giun xoăn dạ múi khế phải đạt đƣợc các yêu cầu
sau:
- Điều trị cho con vật ốm khỏi bệnh và đảm bảo cho ngoại cảnh không bị nhiễm
mầ m bệnh, tránh mầm bệnh nhiễm vào các con vật khác. Sau khi tẩy phải diệt trừ tất
236 cả giun và trứng đƣợc thải ra ngoài để ngăn ngừa mầm bệnh phát tán.
- Định kỳ dùng thuốc tẩy giun xoăn dạ múi khế, chống tái nhiễm, bội nhiễm.
- Tập trung phân để xử lý diệt mầm bệnh.
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) đã vận dụng học thuyết Skrjabin để đƣa ra biện pháp
phòng chống các bệnh giun sán. Tác giả cho rằng, biện pháp hữu hiệu để phòng chống
các bệnh giun sán ở gia súc là biện pháp phòng chống tổng hợp, nghĩa là ở những vùng
sinh thái nh ất định đồng thời sử dụng nhiều biện pháp có hiệu quả đối với tất cả các
giai đoạn phát triển của giun sán ở môi trƣờng cũng nhƣ trong cơ thể ký chủ.
Nhƣ vậy, khâu quan trọng trong biện pháp phòng chống tổng hợp là tẩy giun
xoăn dạ múi khế cho gia súc nhai lại. Có thể tẩy giun còn non và giun trƣởng thành.
Nhƣng thực tế trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của Việt Nam, mầm bệnh giun xoăn
dạ múi khế hầu nhƣ tồn tại và phát triển quanh năm. Vì thế, trong cùng một cơ thể
động vật, đồng thời tồn tại nhiều cá thể giun ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Tuy
vậy, tốt nhất là chọn loại thuốc tẩy đƣợc cả giun non, nghĩa là khi chúng chƣa đạt đến
giai đoạn trƣởng thành, để tránh mầm bệnh phát tán ra môi trƣờng ngoài.
Nguyễn Thị Lê (1996) khuyến cáo rằng, để tẩ y giun đạt hiệu quả cần biết một số yêu
cầu sau: chẩn đoán bệnh chính xác; trƣớc tiên phải tẩy cho những con vật bị nhiễm nặng
hoặc có biểu hiện lâm sàng; với mục đích phòng bệnh thì nên tẩy cho cả đàn gia súc vì có
thể có những gia súc đang mang mầm bệnh nhƣng chƣa phát hiện đƣợc; tốt nhất nên tẩy
giun vào mùa xuân (tháng 3 - 4) và mùa thu (tháng 8 - 9); khi tẩy phải nhốt gia súc trong
chuồng 3 - 5 ngày để tập trung phân ủ diệt mầm bệnh, sau 15 - 20 ngày kiểm tra để đánh
giá hiệu quả của thuốc.
Để phòng chống bệnh giun xoăn dạ múi khế có hiệu quả, đồng thời với việc tẩy giun
phải sử dụng các biện pháp sau:
- Chuồng nuôi gia súc phải giữ sạch sẽ, khô ráo, vì đây là nơi tiếp xúc thƣờng
xuyên với mầ m bệnh.
- Bãi chăn thả có ý nghĩa lớn trong việc phòng chốn g bệnh giun sán vì động vật
bị nhiễm bệnh giun sán chủ yếu ở bãi chăn. Bãi chăn ẩm thấp, có nƣớc là điều kiện
thuận lợi đối với sự phát triển của giun sán. Vì vậy nên chăn thả gia súc ở các bãi cỏ
khô ráo.
Nếu có điều kiện, nên sử dụng luân canh, luân phiên đồng cỏ trong chăn nuôi để giảm
bớt các bệnh giun sán.
- Xử lý phân gia súc để diệt trứng và ấu trùng giun xoăn dạ múi khế, là m mô i
trƣờng sạch hơn. Hàng ngày dọn phân và rác ở chuồng nuôi tập trung vào một nơi, vun
thành đống (cao và rộng 1,5 - 2m), đắp đất kín dày 20 - 30 cm, để sau 3 - 4 tuần, nhiệt độ
đống ủ tăng lên 60 - 70
0
C sẽ làm chết trứng và ấu trùng. Có thể cho thêm tro bếp, vôi và
lá xanh vào để tăng thêm nhiệt độ đống ủ.
237 - Đả m bảo nguồn thức ăn đủ về số lƣợng và chất lƣợng. Tốt nhất nên dùng các loại
cỏ trồng trên cạn, xa nơi chăn thả và chuồng nuôi là m thức ăn cho gia súc. Bổ sung
thêm các loạ i thức ăn giàu vita min, nguyên tố vi lƣợng.
- Cho gia súc uống nguồn nƣớc sạch.
Các tác giả Skrjabin (1963), Trịnh Văn Thịnh (1963), So ulsby (1982), Trịnh Văn
Thịnh và cs (1982), Phan Địch Lân và cs (1989), Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996),
Urquhart và cs (1996), Nguyễn Thị Kim Lan (2000) đều thống nhất áp dụng các biện pháp
phòng trừ tổng hợp nhƣ:
- Định kỳ dùng thuốc tẩy giun.
- Tập trung phân để ủ diệt trứng và ấu trùng giun.
- Không chăn thả súc vật nhai lại ở những bãi chăn ẩm thấp.
- Không cho súc vật nhai lại uống nƣớc vũng tù có nhiều ấu trùng gây nhiễm.
- Thực hiện chăn thả luân phiên đồng cỏ để phòng bệnh.
Trong các biện pháp trên, biện pháp tẩy giun trƣớc khi chúng trƣởng thành có tác
dụng phòng bệnh rất tốt. Phenothiazin - một trong những thuốc có tác dụng ức chế
giun trƣởng thành đẻ trứng và tẩy cả giun non - đƣợc khuyên là nên dùng để tẩy mang
tính chất phòng bệnh cho gia súc nhai lại. Trong thời gian chăn thả, mỗi ngày cho
uống thuốc một lần để phòng bệnh. Có thể dùng thuốc theo tỷ lệ: Phenothiazin 10
phần, bột gạo 20 phần, bột xƣơng 10 phần, muối ăn 60 phần. Ngoài ra, có thể thêm
một số nguyên tố vi lƣợng nhƣ đóng , co ban, iot... Trộn lẫn những thứ trên, cho thêm
một ít nƣớc cháo, làm thành viên, phơi khô, cho vào máng ăn, để súc vật tự gặm (chú ý
là nếu viên thuốc bị ẩm ƣớt, súc vật ăn quá nhiều có thể bị trúng đoạ.
Ng oà i ra, ng ƣờ i ta cò n tiê m v ắc xin chế t ừ ấu trùng g iun xo ăn thuộc họ
Trichoslrongylidae đã đƣợc làm giảm độc bằng chiếu tia X để phòng bệnh cũng cho hiệu
quả tốt (Jarret, 1959).
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét