Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

Chương 7 MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ B ỆNH GIUN SÁN Ở GIA SÚC BỆNH SÁN LÁ GAN Ở TRÂU, BÒ, DÊ (Fasciolosis)


Chương 7
MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ B ỆNH GIUN SÁN Ở GIA SÚC
BỆNH SÁN LÁ GAN Ở TRÂU, BÒ, DÊ
(Fasciolosis)
Bệnh sán lá gan ở trâu, bò, dê do hai loài sán lá ký sinh ở ống dẫn mật và gan gây  ra
(Fasciola hepatica  và  Fasciota gigantica).  Ngoài trâu, bò, dê, hai loài sán này còn  gây
bệnh cho các động vật nhai lại khác, đôi khi thấy cả ở người.
F. hepatica  và  F. giantica  là hai loài sán lá phổ biến ở các vùng thuộc châu Á và
Châu Phi. Theo Stemphenson (1947) và Urquhat (1956), tác hại của sán lá gan đối với gia
súc nhai lại rất lớn, b iểu hiện rõ nhất là gây thiếu máu, viêm và xơ gan khi gia súc  bị nhiễm
sán lá gan ở mức độ nặng.
1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA SÁN LÁ FASCIOLA
1.1. Vị trí của sán lá Fasciola trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Skrjabin và cs (1977), Nguyễn Thị Lê và  cs (1996), sán lá gan ký sinh và  gây
bệnh cho gia súc nhai lại được xếp trong hệ thống phân loại động vật như sau: Ngành
Plathelminthes Schneider, 1873
Phân ngành  Platodes  Leuckart, 1854
Lớp Trematoda Rudolphi, 1 808
Phân lớp Prosostomadidea Skrjabin và Guschanskaja, 1962
Bộ Fasciolida Skrjabin et Schulz, 1937
Phân bộ Fasciolata Skrjabin et Schulz, 1937
Họ Fasciotidae Railliet, 1895
Phân họ Fasciolinae Stiles et Hassall, 1898
Giống Fasciola Linnaeus, 1758
Loài  Fasciola hepatica  (Linnaeus, 1758)
Loài Fasciota gigantica (Cobbold, 1885)
1.2. Đặc điểm hình thái của sán lá Fasciola
Cũng như nhiều loài sán lá khác, sán lá gan lưỡng tính, có thể thụ tinh chéo hoặc  tự
thụ tinh. Sán có giác miệng và giác bụng, giác bụng không nối với cơ quan tiêu hoá:  Sán
không có hệ hô hấp, tuần hoàn và cơ quan thị giác (ở giai đoạn mao ấu có dấu vết  sắc tố
mắt). Hệ sinh dục rất phát triển với cả bộ phận sinh dục đực và cái trong cùng  một sán.
Tử cung sán chứa đầy trứng.
117   Có thể phân biệt hai loài sán lá gan thuộc giống Fasciola  như sau:
-  F. gigantica  (Linnaeus, 1758): có chiều dài thân gấp 3 lần chiều rộng, "vai"
không có hoặc nhìn không rõ rệt, nhánh ruột chia toả ra nhiều nhánh ngang.
F. gigantica  (nghĩa là sán lá "khổng lồ") dài 25  -  75 mm, rộng 3  -  12  mm, u lồi
hình nón của đầu là phần tiếp theo của thân, vì vậy nó không có "vai" như loài khác  của
giống  Fasctota.  Hai rìa bên thân sán song song với nhau, đấu cuối của thân tù. Giác
bụng tròn lồi ra. Ruột, tuyến noãn hoàng, buồng trứng và tinh hoàn đều phâ n  nhánh.
Trứng hình bầu dục, màu vàng nâu, phôi bào to đều và xếp kín vỏ. Kích thước  trứng: 0,125
- 0,170 x 0,06 - 0,10 mm.
-  F. hepatica  (Linnaeus, 1758): trái với loài trên, loài này thân rộng, đầu lồi và nhô
ra phía tluu~ làm cho sán có "vai", nhánh ru ột chia ít nhánh ngang hơn.
F. hepatica (nghĩa là sán lá ở gan) dài 18 -  51 mm, rộng 4 -  13 mm, phần trước thân
nhô ra, tạo cho sán có vai bè ra hai bên. Hai rìa bên thân sán không song song với  nhau mà
phình ra ở chỗ vai rồi thót lại ở đoạn cuối thân. Nh ững ống dẫn tuyến noãn hoàng chạy
ngang, chia vùng giữa của sán thành phần trước và phần sau thân. Phần  sau thân có tinh
hoàn và bộ phận sinh dục đực. Tinh hoàn phân nhiều nhánh xếp phía  sau thân. Tử cung ở
phấn giữa thân trước tạo nên một mạng lưới rối nh ư tơ vò. Buồng  trứng phân nhánh nằm ở
sau tử cung.
Trứng sán có hình thái, màu sắc tương tự trứng của loài F. gigantica, kích thước 0,13
- 0,145 x 0,07 - 0,09 mm.
118   1.3. Chu kỳ sinh học của sán lá Fasciola
Chu kỳ sinh học của sán lá  Fasciola  đã được Leukart (1882) nghiên cứu ở Đức và
Thomas (1882) nghiên cứu ở Anh.
Fasciola  trưởng thành ký sinh trong ống dẫn mật của trâu, bò, dê. Sau khi thụ  tinh,
mỗi sán đẻ hàng chục vạn trứng. Những trứng này cùng dịch mật vào ruột, sau   đó theo phân
ra ngoài. Nếu gặp điều kiện thuận lợi: được nước mưa cuốn trôi xuống các  vũng nước, hồ,
ao, suối, ruộng nước...., nhiệt độ 15 -  300C, pH : 5  - 7,7, có ánh sáng thích hợp... sau 10 -25 ngày trứng nở thành  Miracidium  bơi tự do trong nước. Nếu  thiếu ánh sáng,
Miracidium  không có khả năng thoát vỏ nhưng vẫn tồn tại đến 8 tháng  trong vỏ,
Miracidium có hình tam giác, xung quanh thân có lông và di chuyển được  trong nước.
Khi gặp vật chủ trung gian thích hợp (ốc  Lymnaea), Miracidium  xâm nhập  cơ thể ố c và
phát triển thành bào ấu (Sporocyst). Những Miracidium không gặp vật chủ trung gian thì
rụng lông, rữa dần và chết.
Bào ấu (Sporocyst) hình túi, màu sáng, được bao bọc bởi lớp màng mỏng, các tế  bào
ngọn lửa hoạt động hình thành hầu, ống ruột và các đá m phôi. Trong 1 ốc có thể  có 1  -  2
ấu trùng. Khoảng 3 - 7 ngày, bào ấu sinh sản vô tính cho ra nhiều Redia (lôi ấu). Một bào
ấu sinh ra 5 - 15 lôi ấu.
Redia hình suốt chỉ, ít hoạt động, có miệng, hầu, ruột, hình túi đơn giản. Có hai hệ:
Redia thế hệ 1 và Redia thế hệ II cùng phát triển trong ốc  - vật chủ trung gian. Ở nhiệt độ
16
0
C hoặc thấp hơn, lôi ấu chỉ sản sinh Redia I và dừng phát triển. Ở nhiệt độ  phù hợp (20 -30
0
C), Sau 29  -  35 ngày, lôi ấu biến thành vĩ ấu  (Cercaria). Một Redia  có thể sinh ra 12  -20 Cercaria.
Cercaria  (vĩ ấu) là ấu trùng ở pha sống tự do của sán lá gan, có cấu tạo thân hình
tròn lệch, đuôi dài hơn thân giúp vĩ ấu vận chuyển được dễ dàng trong nước. Cấu tạo
của vĩ ấu gồm giác miệng, giác bụng, hầu, thực quản và ruột phân thành hai nhánh.
Theo Ginyecisz  -  Kaija (1960), trong cơ thể  Cercaria  còn có những hạt Glycogen
cung cấp năng lượng cho hoạt động sống của ấu trùng, đặc biệt là cho sự vận động
không ngừng của đuôi. Đuôi là cơ quan vận động của vĩ ấu. Theo một số tác giả, đuôi  làm
nhiệm vụ thay đổi vị trí của ấu trùng trong môi trường nước. Lizz (1922) cho biết,  nhờ sự
hoạt động tích cực của đuôi mà vĩ ấu tiếp cận để bám vào các cây thuỷ sinh, tạo  thành kén
(Adolescaria).
Từ khi Miracidium chui vào ốc đến khi phát triển thành Cercaria cần khoảng 50
- 80 ngày. Sau khi thành thục, Cercaria thoát khỏi ốc, ra môi trường ngoài, bơi tự do  trong
nước, có kích thước 0,28  -  0,30 mm chiều dài và 0,23 mm chiều rộng. Sau vài  giờ bơi
trong nước,  Cercaria  rụng đuôi, tiết chất nhầy xung quanh   thân, chất nhầy gặp  không khí
khô rất nhanh. Lúc này  Cercaria  đã biến thành Adolescaria.
119   Hình 45. Các dạng ấu trùng của sán Fasciola
1a. M ao ấu nở ra từ trứng sán; 1b. Bào ấu
2a. Lôi ấu non; 2b. Lôi ấu già có vĩ ấu non
3a. Lôi ấu mẹ phóng ra nhiều lôi ấu con
3b. Vĩ ấu ấu trùng sán là gan chui khỏi ốc
4a. Vĩ ấu rụng đuôi tạo thành kén
4b. Kén sán lá gan
Adolescaria  hình khối tròn, bên trong chứa phôi hoạt động. Phôi có giác miệng,
giác bụng, ruột phân nhánh và   túi bài tiết.  Adolescaria  thường ở trong nước hoặc bám
vào cây cỏ thuỷ sinh Nếu trâu, bò, dê thiết phải  Adolescaria,  vào đến dạ dày và ruột,
lớp vỏ ngoài bị phân huỷ, ấu trùng được giải phóng và di chuyển đến ống mật bằng 3
con đường:
- Một số ấu trùng dùng tuyến xuyên chui qua niêm mạc ruột, vào tĩnh mạch ruột,  qua
tĩnh mạch cửa vào gan, xuyên qua nhu mô vào ống mật.
-  Một số ấu trùng khác cũng dùng tuyến xuyên chui qua thành ruột vào xoang
bụng, đến gan, xuyên qua vỏ gan vào ống mật.
Một số ấu trùng từ tá tràng ngược dòng dịch mật để lên ống dẫn mật.
120   Sau khi vào ống dẫn mật, ấu trùng ký sinh ở đó và phát triển thành sán lá gan
trưởng thành. Theo Skerman (1966), thời gian hoàn thành vòng đời là 92  -  117 ngày.
Fasciola  trưởng thành có thể  ký sinh trong ống dẫn mật của súc vật nhai lại 3  -  5 năm,  có
khi tới 11 năm.
Hình 46. Vòng đời phát triển của
sán Fasciola
1  .  Trứng nở thành   Mir acidium
trong nước
2. Miracidium vào ốc   - vật chủ
trung gian
3. Cercaria  rời khỏi ốc
4.  Adolescaria  bám trên cây cỏ thuỷ
sinh
5. Súc vật nhai lại nuốt Adolescaria
6. Sán lá gan trưởng thành ký sinh
Theo Phan Địch Lân (2004), khoa học thú y nước ta đã nghiên cứu thành công
vòng đời của sán lá gan. Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp (28  -  30
0
C), có  ốc vật chủ
trung gian  (Lymnae swinhoei  và  Lymnae viridis),  có vật chủ cuối cùng (trâu, bò, dê,
cừu) thì vòng đời của sán lá gan ở nước ta được xác định với các mức thời gian sau:
-  Ở ngoài thiên nhiên : trứng sán lá gan nở thành mao ấu  (Miracidium)  tron g
khoảng 14 - 16 ngày.
- Ở trong ốc vật chủ trung gian:
Mao ấu (Miracidium)  phát triển thành bào ấu  (Sporocyst) cần 7 ngày.
Bào ấu  (Sporocyst)  phát triển thành lôi ấu  (Redia)  cần 8 - 21 ngày.
Lôi ấu  (Redia)  phát triển thành vĩ ấu  (Cercaria)  non cần 7  -  14 ngày, thành vĩ ấu
trưởng thành cần 13 - 14 ngày.
- Ở ngoài ốc vật chủ trung gian: vĩ ấu phát triển thành kén (Adolescaria)  sau 2
giờ.
-  Ở trâu, bò: khi trâu bò, bê nghé thiết phải  Adolescaria,  sau 79  -  88 ngày trong
ống dẫn mật của trâu bò đã có sán lá gan trưởng thành đẻ trứng theo phân ra ngoài.
Điều kiện nhiệt độ và ẩm độ của nước ta rất thuận lợi cho sự nhiễm và gây bệnh
121   của sán lá gan (kể cả gây nhiễm và nhiễm tự nhiên). Ở những vùng có mầm bệnh tồn  tại,
cứ trung bình 3 tháng sán lá.  gan lại hoàn thành vòng đời trong cơ thể trâu, bò,  nghĩa là
trong trâu bò lại tạo ra một đời sán mới. Con vật trong khi đã có sán lá gan ký  sinh lại tiếp
tục nhiễm thân mầm bệnh mới, gây tình trạng bội nhiễm sán lá gan, vì vậy  cường độ nhiễm
tăng lên theo  tuổi trâu, bò.
2. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC B ỆNH SÁN LÁ FASCIOLA
Bệnh sán lá gan phổ biến ở khắp các châu lục và nhiều nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, bệnh thấy ở khắp các tỉnh thành trong cả nước.
Houmeder (1938) đã điều tra và thấy, trâu, bò, dê, cừu, thỏ ở miền Bắc Việt Nam đều
nhiễ m sán lá  F. gigantica  theo tỷ lệ thứ tự là 64,7%; 23,5%; 37%; 52,94%;  14,28%;
đặc biệt có 2 trường hợp người nhiễm sán.
Trịnh Văn Thịnh (1978) cho b iết, trâu trưởng thành mắc bệnh sán lá gan do
F.gigantica, tỷ lệ nhiễm tới 50 -  70%. Theo Phan Địch Lân (1980), mổ khám 1043 trâu ở
Thái Nguyên, số trâu nhiễm sán lá gan là 57%, trong đó có nhiều gan phải huỷ  bỏ do số
lượng sán quá nhiều. Kết quả điều tra ở huyện Bình Lục  -  Na m Hà , tỷ lệ  nhiễm sán lá
gan ở trâu là 51,2 - 57,5%.
Đoàn Văn Phúc (1980) đã kiể m tra 64 bò tại trại bò sữa Hà Nội, thấy tỷ lệ nhiễm  sán
Fasciola là 73,43%. Tác giả còn cho biết, bệnh sán lá gan đã ảnh trong rõ rệt đến sức khoẻ
và sản lượng sữa của đàn bò.
Nguyễn Đức Dương (1995) đã xét nghiệm phân của 537 hàn h tại các trại nuôi hươu
ở HÀ T nít, Quỳnh Lưu, Diễn Châu (Nghệ An) và công viên thủ lệ Hà Nội, phát  hiện
13,22% số hươu nhiễm sán  F. gigantica.
Theo Nguyễn Quang Sức và Nguyễn Thế Hùng (1995), đàn dê Bách Thảo sau hơn 3
năm nuôi tại Trung tâm nghiên cứu  dê, thỏ Sơn Tây và một số gia đình nuôi dê nhiễm sán
lá gan với tỷ lệ 30,4%.
Đoàn Văn Phúc, Vương Đức Chất, Dương Thanh Hà (1995) cho biết, trâu bò
thuộc khu vực Hà Nộ i nhiễ m sán lá gan tỷ lệ 53,41%.
Kết quả kiể m tra trâu, bò ở một số địa phương xung quanh Hà Nội, Bắc Giang, Thái
Nguyên, Hoà Bình, tỷ lệ nhiễ m sần lá gan là 44,53% . Trong đó, trâu nhiễ m  33,92%,
bò nhiễm 54,21% (Lương Tố Thu và Bùi Khánh Linh, 1996).
Nguyễn Thị Kim Lan (2000) đã nghiên cứu và cho biết, đàn dê địa phương nuôi  ở
các tỉnh Thái  Nguyên, Bắc Kim, Tuyên Quang và Cao Bằng nhiễm sán lá gan biến động
từ 5,3% đến 27,9% tuỳ theo địa phương.
Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở gia súc nhai lại phụ thuộc vào những yếu
tố sau:
-  Yếu tố thời tiết, khí hậu và mùa vụ
122   Thời tiết, khí hậu của một vùng, một khu vực có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại  và
phát triển của ốc  - vật chủ trung gian của sán lá gan. Điều kiện ẩm ướt, mưa nhiều  tạo ra
môi trường nước, giúp ốc nước ngọt sống và sinh sản thuận lợi.
Trịnh Văn Thịnh (1963), Trịnh Văn Thịnh và cs (1978), Phạm Văn Khuê và Phan
Lục (1996), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999).... đều cho biết, gia súc nhai lại nhiễm
sán lá gan thường tăng lên vào mùa vật chủ trung gian phát triển. Những năm mưa
nhiều, tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng lên so với những năm nắng ráo và khô hạn. Mùa vụ
gắn liền với sự thay đổi thời tiết khí hậu. Mùa hè thu, số gia súc bị nhiễm sán lá gan
tăng cao hơn các mùa khác trong năm. Cuối mùa thu và mùa đông bệnh thường phát
ra.
-  Yếu tố vùng và địa hình
Vùng và  địa hình là ha i khá i niệ m khác nhau, song có liên quan chặt chẽ với
nhau.
Các vùng khác nhau có địa hình không giống nhau. Địa hình là yếu tố quan trọng
quyết định sự khác nhau giữa các vùng.
Các vùng khác nhau trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói  riêng đều thuộc bốn
loại địa hình: ven biển, đồng bằng, trung du và miền núi.
Hầu hết các nhà ký sinh trùng học thống nhất rằng, gia súc nhai lại ở vùng đồng bằng
nhiễm sán lá gan nhiều nhất, tỷ lệ và cường độ nhiễm giảm dần đối với đàn gia  súc nhai
lại ở vùng ven biển, vùng trung du và vùng núi. Về nguyên nhân dẫn .đến quy  luật này, các
tác giả (Trịnh Văn Thịnh, 1963; Phạm Văn Khuê và cs, 1996; Soulsby,  1982; Kaufmann,
1996....) đều giải thích: vùng đồng bằng có nhiều hồ, ao, kênh, rạch,  có điều kiện cho  ốc  -vật chủ trung gian sống và sinh sản. Các kiểưđịa hình khác thì  vấn đề này han chế hơn so
với đồng bằng.
Phan Địch Lân (1994) đã điều tra 7.359 trâu, bò ở 26 tỉnh miền Bắc Việt Nam,
kết quả thấy: trâu bò ở vùng đồng bằng nhiễm sán lá gan c ao nhất, sau đó đến vùng
trung du, vùng ven biển và miền núi (bình quân tỷ lệ nhiễm sán ở các vùng điều tra
123   như sau: vùng đồng bằng từ 19,6% đến 61,3%, vùng trung du từ 16,4% đến 50,2%,  vùng
ven biển từ 13,7% đến 39,6%, vùng núi từ 14,7% đến 44, 0%). Theo Nguyễn  Đăng
Khai (1996), tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu bò vùng đồng bằng qua mổ khám là  88%, vùng
trung du là 77,6%.
-  Yếu tố loài và tuổi vật chủ cuối cùng
Súc vật nhai lại đã được thuần hoá như trâu, bò, dê, cừu đều nhiễm sán lá gan
Fasciola.  Ngoài ra , súc vật hoang dã cũng nhiễm sán lá này (hươu, nai, hoẵng....).
Cũng có những trường hợp thỏ, ngựa, lợn nhiễm  Fasciola,  ngay cả người cũng có thể
nhiễm sán.
Ở nước ta, theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978), Phạm Văn Khuê và cs (1996), loài
súc vật nhiễm sán lá  Fasciola  nhiều nhất là trâu (79,6% ), bò ít hơn (36%), dê ít nhất
(20%). Sở dĩ trâu nhiễm sán lá gan nhiều là do đặc tính ưa nước của chúng (thích ăn  gần
chỗ có nước, đằm tắm trong nước và uống nước ở vũng, ao, kênh rạch), trong khi  đặc điểm
của bò và dê ít ưa nước hơn.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998), dê địa phương ở Thái Nguyên, Bắc  Kim,
Tuyên Quang và Cao Bằng nhiễm sán lá gan ở các lứa tuổi là 14,88% , ở dê  trưởng
thành là 22,86%. Tác giả nhận xét: khi thiếu thức ăn, cả đàn dê có thể  lội xuống ruộng
nước để an cỏ sống dưới nước, do đó dễ dàng thiết phải kén gây bệnh.
Về mối liên quan giữa tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá gan và tuổi vật chủ, các tác
giả đều thống nhất rằng, tuổi súc vật càng cao thì tỷ lệ và cường độ nhiễm càng tăng
lên . Một điều dễ nhận thấy là, súc vật tuổi càng tăng lên (thời gian sống càng dài) thì
sứ tiếp xúc với mô i trường ngoại cảnh càng nhiều, cơ hội gặp và thiết phải nang ấu
(Adolescaria)  càng cao. Mặt khác, sán  Fasciola  trưởng thành có thời gian ký sinh ở
sú c vật nhai lại tương đối dài (3  -  5 năm, thậm chí tới 1 1 năm). Đó chính là cơ sở khoa
học giải thích cho quy luật nhiễm theo tuổi vật chủ của sán lá  Fasciola sp..
Phan Địch Lân (1994, 2004) cho biết, trâu dưới 3 năm tuổi chỉ nhiễm sán lá gan
17,2  -  22,0%; trâu 3  -  5 năm tuổi nhiễm sán lá gan 31,2  -  40,2%, trâu 5  -  8 năm tuổi
nhiễm 42,4  -  57,5%, trâu trên 8 năm tuổi nhiễm 56,8  -  66,3%, trâu ở độ tuổi phế canh
(loại thải) khi mổ khá m thấy tỷ lệ nhiễm cao tới 84,6% (những trâu này bị bệnh rất
nặng, gan  phải huỷ bỏ toàn bộ do có quá nhiều sán ký sinh). Theo Nguyễn Thị Kim
Lan (2000), tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan cũng tăng lên theo tuổi dê.
Nguồn gieo rắc bệnh chủ yếu là súc vật nuôi (trâu, bò, dê, cừu.. ...)  và những dã  thú
mang Fasciola. Trứng sán lá gan theo phân của súc vật ra ngoài tự nhiên. Hàng  năm, mỗi
sán lá gan ký sinh đẻ khoảng 6000 trứng: Vì vậy, mỗi súc vật mang sán hàng  năm thải khối
lượng trứng khá lớn ra đồng cỏ và các bãi chăn thả. Những đồng cỏ ẩm  thấp, lầy lội là
những nơi cần thiết để mầm bệnh phát triển và xâm nhập vào súc vật,  đồng thời thuận lợi
cho trứng nở thành  Miracidium và thuận lợi cho vật chủ trung gian của Fasciota tồn tại và
phát triển.
124   -  Vật chủ trung gian của Fasciola sp.
Sự phân bố các loài ốc  -  vật chủ trung gian của sán lá gan phụ thuộc vào các
vùng địa lý khác nhau. Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), Kaufmann (1996), vật chủ
trung gian của sán lá  Fasciola  là các loài ốc nước ngọt họ  Lymnaea: L. auricularia,  L.
swinhoei, L. viridis, Galba truncatula, Radix   ovata...
Phan Địch Lân (1980) đã tổng hợp và cho biết: loài ốc  -   vật chủ trung gian của  F.
gigantica  ở Ấn Độ là  L. acu minata,  ở châu Phi là  L. natalensis,  ở Pakistan là  L.
permisca,  ở Apganixtan là  L. luteola,  ở Malaixia là  L. auricularia,  ở Nhật Bản là  L.
pervia, ở Indonexia và Philippine là L. viridis, ở Hungari là G. truncatula v.v...
Ốc G. truncatula là loài ốc nhỏ, dài 10 mm, rộng 5 mm, vỏ màu xá m; đầu dài, có  4 - 5
gai thịt. Nhiệt độ tốt nhất để loài ốc này phát triển là 20 - 22
0
C, pa: 6,6 - 8,6, sinh  sản mạnh
từ tháng 4 đến tháng 9.
Theo Jorgen Hansen và cs (1994), nhiệt độ thích hợp nhất cho sự phát triển của
ốc là 15  -  26
0
C, khi ở nhiệt độ này chúng đẻ số lượng trứng rất lớn . Trứng nở trong
vòng 2 tuần và sau 1 tháng thành ốc trưởng thành.  Một con ốc trong vòng 10  -  12 tuần
có thể sinh sản ra hàng ngàn con ốc. Ở dưới tước, ốc không phát triển và ngừng hoạt
động. Tuy nhiên, ốc có thể chui vào bùn và sống trong điều kiện bất lợi nhiều tháng.
Phan Địch Lân và cs (1985) đã khảo sát đặc điểm  sinh học của ốc  -  vật chủ trung
gian của  F. gigantica  ở miền Bắc Việt Nam. Tác giả cho biết, vật chủ trung gian của
sán lá  Fasciola  là hai loài ốc nước ngọt thuộc giống Lymnae với tên gọi là ốc vành tai
(L. swinhoei)  và ốc chanh  (L. viridis).  Loài  L. swinhoei  có vỏ mỏng, dễ vỡ không có
nắp miệng, kích thước 20 mm, vòng xoắn cuối cùng rất lớn, chiếm gần hết phần thân,
vỏ leo ra như vành tai. Loà i  L. viridis  cũng có vỏ mỏng, không có nắp miệng, kích
thước 10 mm, vở dễ vỡ, có 4  -  5 vòng xoắn, vòng xoắn c uối cùng lớn (hình 48).
125   Ốc L.  viridis  thường sống ở những nơi nước xâm xấp, đẻ trứng thành ở 7  -  10
trứng, sau 7 ngày nở thành ốc con. Ốc  L. swinhoei  thường sống trôi nổi ở cống rãnh,  ao,
hồ, đẻ trứng quanh năm, mỗi ổ có 60 -  150 trứng. Trong điều kiện nhiệt độ ở nước ta, ốc đẻ
quanh năm và quanh năm có ốc con được nở ra.
Phan Địch Lân (1994, 2004) cho biết: ốc L. swinhoei  phân bố nhiều hơn ở vùng  đồng
bằng, trong khi ốc  L. viridis phân bố nhiều hơn ở vùng núi, trung du và ven  biển. Theo kết
quả nghiên cứu của tác giả thì hai loài ốc này đều xuất hiện trong cả 12 tháng  của năm,
nhưng mật độ (tính trên 1 m
2
) khác nhau theo vùng: vùng đồng bằng, mật độ  ốc  L.
swinhoei  cao hơn và phân bố đều trong năm, còn ốc  L. viridis  thì xuất hi ện với  mật độ
cao hơn ở các vùng núi, trung du, ven biển. Từ đó, tác giả nhận xét rằng,  L. swinhoei
chịu nước hơn, còn L. viridis chịu cạn hơn.
Sự tồn tại và phát triển quanh năm, ở tất cả các vùng của ốc  -  vật chủ trung gian
là điều kiện quan trọng nhất   làm cho tỷ lệ nhiễm sán lá gan của súc vật nhai lại ở nước
ta cao và phổ biến ở tất cả các vùng. Phan Địch Lân (1994, 2004) đã tổng hợp và cho
biết, nước ta được xếp vào một trong 5 nước ở châu Á trồng lúa nước có đàn trâu, bò
nhiễm bệnh sán lá gan với tỷ lệ cao nhất. Kết quả điều tra ở một số vùng cho thấy:
Ở 11 tỉnh miền núi, tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu bò là 39%.
Ở 4 tỉnh trung du, tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu bò là 42,2%.
Ở 5 tỉnh thuộc vùng đồng bằng, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 57,5%.
Ở 6 tỉnh thuộc vùng ven biển, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 36,7%.
Theo Nguyễn Trọng Kim (1997), giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan của ốc  -vật chủ trung gian với tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò có mối tương quan thuận,  nghĩa
là, nếu tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan ở ốc nước ngọt cao thì tỷ lệ nhiễm sán lá  gan của
trâu, bò ở khu vực đó cũng cao.
- Sức đề kháng của trứng và ấu trùng sán lá gan
Trứng sán lá gan được thải theo phân súc vật nhai lại ra môi trường ngoại cảnh.
Trứng sán rất nhậy cảm với điều kiện khô hạn và tác động trực tiếp của ánh sáng mặt trời.
Ở trong phân khô, phôi ngừng phát triển, trứng bị chết sau 8 - 9 ngày.
Trong điều kiện khô hạn, vọ trứng bị nhăn nheo, biến đổi hình dạng,  Miracidium
bị chết trong vỏ trứng sau 1  -  1,5 ngày. Ở môi  trường ẩm ướt, trứng có khả năng sống
khá lâu (trong phân hơi ẩm, trứng tồn tại đến 8 tháng). Dưới ánh nắng chiếu trực tiếp,
trứng chết nhanh. Phôi bị chết sau 2 ngày ở nhiệt độ thấp ( -5
0
C → - 15
0
C). Nhiệt độ 10
-  20
0
C, trứng ngừng phát triển. Nhiệt độ  40  -  50
0
C, phôi chết sau vài phút (Phạm Văn
Khuê và cs, 1996).
Khi phát triển đến giai đoạn nang ấu  (Adolescaria),  sức đề kháng của chúng tăng
lên rõ rệt. Adolescaria có khả năng tồn tại ở nhiệt độ -4
0
C → -6
0
C. Ở điều kiện nhiệt
126   độ bình thường , những  Adolescaria  có trong cỏ khô bị ẩm và trong môi trường nước  có
thể tồn tại đến trên 5 tháng (Kaufmann, 1996).
3. ĐẶC ĐIỂM B ỆNH LÝ VÀ LÂM SÀNG B ỆNH SÁN LÁ FASCIOLA
Súc vật bị bệnh sán lá gan thể hiện những biến đổi cơ bản ở gan và ống mật do  tác
động của Fasciola gây ra.
3.1. Bệnh lý và lâm sàng bệnh sán lá gan ở trâu, bò
3.1.1. Bệnh lý của bệnh sán lá gan trâu bò
Theo các nhà ký sinh trùng học, sán lá gan gây bệnh ở vật chủ bằng các tác động
cơ học, tác động của độc tố, sự chiếm đoạt dinh dưỡng   và tác động mang trùng. Khi
súc vật mới nhiễ m bệnh, sán non di hành trong cơ thể làm tổn thương ở ruột, thành
mạch máu, nhu mô gan. Một số ấu trùng có thể theo máu di chuyển "lạc chỗ" đến phổi,
lách, cơ hoành, tuyến tuỵ.... gây tổn thương và xuất huyết   nặng hoặc nhẹ. Sán non
xuyên qua các nhu mô gan, làm tổ chức gan bị phá hoại, tạo ra những đường di hành
đầy máu và mảnh tổ chức gan bị phá huỷ. Gan bị viêm từ nhẹ đến nặng tuỳ theo số
lượng ấu trùng nhiễm vào cơ thể. Súc vật bị thiếu máu do xuất huyết , có thể chết do
mất máu.
Tác động cơ giới của sán còn tiếp tục khi sán đã vào ống dẫn mật, tiếp tục tăng  lên
về kích thước và phát triển thành sán trưởng thành. Sán trưởng thành thường xuyên  kích
thích niêm mạc ống mật bằng các gai cuốn trên cơ thể, gây  viêm ống mật. Số  lượng sán
nhiều có thể làm tắc ống mật, mật ứ lại không xuống ruột được sẽ tràn vào  máu, gây hiện
tượng hoàng đản.
Trong quá trình ký sinh, sán thường xuyên tiết độc tố. Độc tố tác động vào thành
ống mật và mô gan, gây biến đổi đại thể  và vi thể, làm tăng quá trình viêm. Đồng thời,
độc tố của sán còn hấp thu vào máu, gây hiện tượng trúng độc toàn thân, gây huỷ hoại
máu, là m biến chất protein trong máu, làm Albumin giả m, Globulin tăng. Độc tố của
sán còn làm tăng nhiệt độ cơ thể, tăng  bạch cầu (đặc biệt là bạch cầu ái toan). Độc tố
của sán còn tác động vào thần kinh, làm cho con vật có triệu chứng thần kinh (run rẩy,
đi xiêu vẹo) Độc tố của sán lá gan tác động vào thành mạch máu, làm tăng tính thấm
của thành mạch, gây hiện tượng thuỷ   thững, làm cho máu đặc lại. Cũng do tác động
của độc tố nên giữa những tiểu thuỳ gan có hiện tượng thấm nhiễm huyết thanh và tế
bào, hình thành nên các mô liên kết mới dọc theo các vách ngăn của tiểu thùy gan và
quanh ống mật, vì vậy những ống mật này  cũng dày lên. Quá trình viêm kéo dài làm
cho các tế bào tổ chức tăng sinh, thay thế những tế bào nhu mô gan, gây hiện tượng xơ
gan và teo gan. Khi súc vật nhiễm sán lá gan nặng, hiện tượng xơ gan chiếm diện tích
lớn của gan, làm cho chức năng của gan bị  phá huỷ. Từ đó dẫn đến hàng loạt rối loạn
khác như: rối loạn cơ năng dạ dày  -  ruột, thiếu máu, suy nhược, gầy dần, cổ chướng,
xoang phúc mạc tích nước.
Một tác động quan trọng của Fasciola khi ký sinh ở vật chủ là chiếm đoạt dinh
127  dưỡng. Dinh   dưỡng của sán lá gan là máu súc vật mà nó ký sinh. Bằng phương pháp
phóng xạ, người ta đã thấy mỗi sán ký sinh ở ống dẫn mật lấy 0,2 ml máu mỗi ngày.
Như vậy, nếu súc vật nhiễm ít sán thì vai trò chiếm đoạt dinh dưỡng không rõ,
nhưng nếu mỗi súc vật có  hàng trăm, hàng nghìn sán ký sinh thì lượng máu mất đi rất
nhiều. Ngoài các tác động gây bệnh trên, trong khi di hành, sán non còn mang theo các  loại
vi trùng từ bên ngoài vào máu, gan và những cơ quan khác, gây những bọc mủ hoặc gây
bệnh truyền nhiễm khác .
Tất cả những tác động kể trên của sán lá  Fasciola  làm cho sức đề kháng của cơ thể
trâu, bò giảm sút nghiêm trọng, dễ mắc các bệnh khác, hoặc làm cho các bệnh đang  có
trong cơ thể súc vật nặng thêm lên.
Daves (1958) nhận xét rằng, gia súc bị suy nhược và thiếu máu là do độc tố của
F.gigantica,  độc tố của sán còn tác động gây hiện tượng protein trong huyết thanh biến
chất, lượng Albumin giảm và Globulin tăng. Davtjan (1962) đã chứng minh, quá trình
dị ứng của cơ thể súc vật là kết quả tác động của các  kháng nguyên sinh ra từ sán với
kháng thể xuất hiện trong tổ chức gan, và các chất sinh ra từ tổ chức khác bị huỷ hoại.
Quá trình dị ứng dẫn đến những rối loạn đầu tiên, biểu hiện bằng hiện tượng suy dinh
dưỡng, thiếu vitamin A, bằng sự tăng quá nhiều bạch cầu ái toan trong cơ thể.
3.1.2. Triệu chứng bệnh sán lá gan ở trâu bò
Triệu chứng lâm sàng là biểu hiện ra bên ngoài bởi các tác động gây bệnh của
sán  Fasciola.  Triệu chứng ở trâu, bò biểu hiện nặng hay nhẹ còn phụ thuộc vào cường
độ nhiễm sán, tình trạng sức khoẻ và tuổi súc vật, tình trạng chăm sóc quản lý v.v...
Thể cấp tính thường gặp ở trâu, bò 1,5  -  2 nă m tuổi (Phạ m Văn Khuê và cs,
1996), trong giai đoạn sán non di hành hoặc khi nuôi dưỡng, chăm sóc kém.
Súc vật biểu hiện: ăn uống sút kém,  suy nhược, chướng bụng, ỉa chảy, miệng hôi,
sốt, gan sưng to và đau, thiếu máu, vàng da, đôi khi có triệu chứng thần kinh (lảo đảo,
xiêu vẹo). Súc vật có thể chết do xuất huyết nặng, trúng độc và suy nhược cơ thể.
-  Thể mãn t ính thấy phổ biến ở trâu, b ò trưởng thành, khi súc vật được nuôi
dưỡng tốt và sán đã ở giai đoạn trưởng thành, ký sinh trong ống dẫn mật với số lượng  ít.
Thể mãn tính thường xuất hiện sau thể cấp tính 1 - 2 tháng.
Súc vật biểu hiện: ăn uống kém, suy nhược, niêm mạc nhợt nhạt, lông  xù và dễ rụng
(nhất là lông ở vùng dọc hai bên sườn và dọc xương ức). Xuất hiện thuỷ thông ở mí mắt,
yếm, ngực, bộ phận sinh dục. Thuỷ thững ban đầu lúc thấy, lúc không, về sau  thấy liên tục
Con vật nhai lại yếu, khát nước, ỉa chảy xen kẽ táo bón, gày yếu dần. Giai đoạn sau đi tháo
nhiều hơn và gày rất nhanh. Kiểm tra lâm sàng thấy gan sưng to và  đau. Có thể thấy hiện
tượng xảy thai ở bò cái bị bệnh, lượng sữa có thể giảm 30  -  50%.  Triệu chứng thần kinh
cũng có thể gặp song rất hiếm. Bệnh kéo dài nhiều thán g, con  vật có thể chết do suy
nhược toàn thân.
128   Phan Địch Lân (1994, 2004) đã theo dõi 37 trâu bị bệnh sán lá gan nặng, thấy các  triệu
chứng thường lặp đi lặp lại như: gày rạc, suy nhược cơ thể (37/37); phân nhão  không
thành khuôn, có lúc ỉa lỏn g (32/37); niêm mạc mắt nhợt nhạt, thiếu máu kéo dài  (27/37);
lông xù, da mốc, lông dễ rụng (26/37); phân đen, thối khám (22/37); mắt sâu,  có dử
(18/37); bụng ỏng, ỉa chảy kéo dài (13/37); thuỷ thông ở nách, hai chân trước,  gan to (l
l/37); thuỷ thông ở ng ực, ức liên tục (9/37).
Nhìn chung, khi súc vật bị bệnh sán lá gan kéo dài, cơ thể suy nhược nặng, nếu
không được điều trị kịp thời thì súc vật thường chết.
3.1.3. Bệnh tích của trâu, bò mắc bệnh sán lá gan
Tuỳ theo mức độ nhiễm sán mà bệnh tích có sự khác nhau.
Đối với trâu bò nhiễm sán nặng, bệnh tích thấy rõ là viêm gan cấp tính, gan sưng  to,
màu nâu sẫm, xung huyết. Trên mặt gan có thể thấy những đường di hành của sán non tạo
thành những vệt đỏ thẫm, dài 2  -  4 mm, trong có sán non với số lượng nhiều .  Lớp thanh
mạc xuất huyết nhẹ, đôi khi có tơ huyết. Khi nhiễm nặng thấy viêm phúc  mạc, gan xuất
huyết nhiều, niêm mạc mắt nhợt nhạt.
Ở những súc vật nhiễm sán lá gan đã lâu, gan viêm mãn tính, những chỗ mô gan  bị
phá huỷ có sẹo mầu vàng xám. Ga n xơ cứng, niêm mạc ống dẫn mật dầy, có hiện tượng
can xi hoá mặt trong thành ống. Lòng ống dẫn mật giãn rộng, chứa đầy dịch  màu nâu
và sán  Fasciola.  Khi ống mật bị can xi hoá nhiều, sán ở chỗ đó thường bị chết  hoặc
chuyển đến chỗ ít biến đổi hơn.
129   Ngoài gan và ống mật, đôi khi còn thấy sán ở phổi trâu, bò. Trường hợp này sán ở
trong những bọc bằng quả trứng gà hoặc nhỏ hơn, trong chứa dịch màu nâu.
Quan sát biến đổi vi thể dưới kính hiển vi thấy: nhu mô gan mất màu, liên b ào ống
mật thoái hoá, niêm mạc tăng sinh thành những u, trong u chứa nhiều bạch cầu,  lâm ba
cầu, bạch cầu ái toan, đại thực bào chứa đầy sắc tố mật và máu. Quá trình viêm  tăng sinh
lan xuống lớp sâu hơn của ống mật: tổ chức liên kết tăng sinh, lan vào các  thuỳ gan làm
tan biến tổ chức gan (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996).
Nghiên cứu bệnh sán lá gan ở trâu, bò, Phan Địch Lân (1994) cho biết: khi mổ
khám trâu bò bị bệnh sán lá gan thấy có bệnh tích đặc biệt là gan to rất nhiều so với
bình thường (gấp 2  -  3 lần). Gan màu đỏ sẫm, biểu hiện xung huyết. Dưới vỏ gan thấy
ứa nước, trên mặt gan còn giữ lại những đường ngoằn nghoèo do sán di hành. Tổ chức
liên kết phát triển tạo nên những sẹo đặc biệt. Trong gan còn thấy những sán non
không đến được ống dẫn mật , đóng kén và chết trong kén to bằng hạt đậu. Cắt tổ chức
gan thấy lạo xạo do biến chất thoái hoá. Do tăng sinh tổ chức liên kết nên gan cứng và
xơ gan. Trường hợp viêm phúc mạc xoang bụng chứa nhiều nước (cổ chướng).
Nguyễn Thị Kim Thành và cs (1996) đ ã nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý máu
của trâu bị bệnh sán lá gan, kết quả thấy: số lượng hồng cầu giảm, hàm lượng huyết
sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng, công thức bạch cầu thay đổi nghiêng về bạch cầu
ái toan.
3.2. Bệnh lý và lâm sàng bệnh sán lá gan ở dê
Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2002) đã tổng hợp những nghiên
cứu về bệnh sán lá gan của dê địa phương ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Qua theo dõi bệnh lý và lâm sàng của nhiều dê bị bệnh, các tác giả cho biết: sau khi d ê
nuốt phải kén  Adolescana  vài ngày, sán non di hành gây tổn thương thành ruột, thành
mạch quản, nhu mô gan, lách, phổi, cơ hoành, tuyến tuỵ, gây xuất huyết nặng hoặc
nhẹ. Thường thấy dê bị viêm gan, thiếu máu do xuất huyết. Sán trưởng thành kích
thích   niêm mạc ống dẫn mật, gây viêm ống dẫn mật. Có những dê bị tắc ống mật do số
lượng sán quá nhiều, mật thấm vào máu, sinh ra hoàng đản. Sán thường xuyên tiết độc
130   tố làm biến đổi thành ống dẫn mật và mô gan. Độc tố hấp thu vào máu gây trúng độc  t oàn
thân. Độc tố còn phá hoại máu, làm tăng bạch cầu Eo sin và nhiệt độ cơ thể. Độc  tố tác
động vào thần kinh của dê, tác động vào các thuỳ gan làm tổ chức liên kết tăng sinh, thoái
hoá nhu mô gan, gây xơ gan, chức năng gan bị phá huỷ dẫn đến rối loạn cơ năng dạ dày và
ruột.
Theo Holmes P. H và cs (1968), dê cừu bị bệnh  Fasciola có triệu chứng thiếu  máu
nặng và thay đổi protein huyết thanh. Thiếu máu là do sán non di hành gây xuất  huyết và
sán trưởng thành hút máu ký chủ. Lượng máu mà mỗi sán đoạt của ký chủ  xấp xỉ 0,5
ml/ngày.
Reid J. F. S (1973) cho biết, có sự thay đổi protein huyết thanh của những dê bị
nhiễm sán lá  Fasciola.  Sự thay đổi này xảy ra sớm, ngay trong giai đoạn sán non di
hành. Đó là sự tăng Globulin và giảm Albumin huyết thanh.
Gây nhiễ m   thực nghiệm sán lá  Fasciola  cho dê và theo dõi diễn biến bệnh lý,
Rushton B. và Murray M . (1977) thấy, sự di chuyển của sán non đã tạo ra những
đường di hành ở gan và phá huỷ cấu trúc nhu mô gan, gây viêm gan. Sự di hành của  sán
cũng gây nghẽn tĩnh mạch ở gan và làm gan bị xung huyết. Sau đó, sự cản trở máu chảy dẫn
đến thoái hoá và hoại tử các nhu mô gan. Sự hàn gắn và tái sinh của những  tổn thương
này bắt đầu vào khoảng 4  -  6 tuần sau khi nhiễm. Xơ gan phát triển vào khoảng 12  -  20
tuần sau khi nhiễm.
V ề lâ m sàng, dê bị bệnh sán lá gan thể hiện hai thể: thể cấp tính, diễn ra chủ yếu  ở
giai đoạn sán non di hành; thể mãn tính thường ở dê trưởng thành. Con vật ăn kém, cơ thể
suy nhược, không theo kịp đàn. Con vật thiếu máu, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù  và dễ
nhổ. Triệu chứng ỉa chảy thấy ở 100% dê bệnh với các mức độ khác nhau. Thuỷ  thông ở
ngực, nách và 4 chân (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999).
Dê bệnh thể hiện rõ viêm gan, xơ gan, giãn mạch quản, ống dẫn mật có nhiều sán
trong dịch tiết, biểu mô của ống dẫn  mật tăng sinh (Das P. M., 1987).
Nghiên cứu về bệnh sán lá gan ở dê, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998) cho biết,
khi dê bị bệnh sán lá gan, số lượng hồng cầu giảm, hàm lượng huyết sắc tố giảm, số
lượng bạch cầu tăng, bạch cầu Eo sin tăng cao. Mổ khám 748   dê 1  -  4 năm tuổi, có 159
dê nhiễm sán F.  gigantica.  Trong đó có 42 dê có bệnh tích rõ ở gan, chiếm 26,42%.
Bệnh tích đại thể ở gan dê nhiễm sán lá  Fasciola  nặng được tác giả mô tả như sau: gan
dê sưng to, bề mặt gan gồ nghề, không bằng phẳng. Sờ gan t hấy cứng và thô hơn so
với gan bình thường. Mâu sắc gan không đồng nhất, có những vệt trắng xám loang lổ
hoặc những vệt đỏ thẫm trên mặt gan. Ở bề mặt và trong gan có những nốt hoại tử máu
trắng xám to bằng hạt đậu xanh. ống dẫn mật viêm và xơ hoá, nổi  như dây chằng màu
trắng ở mặt dưới gan. Cắt gan thấy dai và nghe tiếng "soạt" như cắt xơ mướp. Dùng
kẻo cắt dọc ống dẫn mật thấy cứng, thành ống mật dầy lên, xù xì, lòng ống mật chứa
đầy dịch màu nâu sẫm, nhờn và có nhiều sán Fasciota. Tác giả còn cho b iết, trong 159
131   dê nhiễm sán lá gan mổ khám, có 42 dê phải huỷ bỏ gan do gan bị cứng, viêm và xơ
gan.
Biến đổi vi thể do sán F. gigantica ở dê được Nguyễn Thị Kim Lan (2000) mô tả như
sau:
Sán lá gan ký sinh ở ống dẫn mật với số lượng nhiều làm tắc ống mật, là m cho dịch
mật ứ lại xung quanh các huyết quản, gây ra huyết khối trong các mạch quản gian thuỳ (hình
53).
Sán lá gan ký sinh ở ống dẫn mật làm cho dịch mật ứ lại, kích thích tế bào biểu  mô
ống dẫn mật tăng sinh, hìn h thành các ống dẫn mật phụ (hình 54).
132   Thành ống dẫn mật bị sơ hoá, dày và xù xì. Tế bào biểu mô của ống mật bị đứt  nát
do tác động của sán Fasciola (hình 55).
Do ống dẫn mật bị tắc, dịch mật ứ lại ở quãng cửa, quan sát th ấy rõ màu vàng của
dịch mật (hình 56).
Tác động cơ học và độc tố của sán  Fasciola  kích thích, làm tăng sinh các tế bào
viêm và các tế bào xơ xung quanh ống mật, đặc biệt là tăng sinh nhiều bạch cầu ái toan
(hình 57).
Thành ống mật cũng có những biến đổi rõ rệt. Đó là sự tăng sinh các tế bào xơ và tế
bào viêm ở thành ống mật. Sự có mặt của rất nhiều bạch cầu ái toan ở thành ống mật rất đặc
trưng cho phản ứng của cơ thể đối với tác động của giun sán (hình 58).
133   4. CHẨN ĐOÁN B ỆNH DO  FASCIOLA GÂY RA Ở SÚC VẬT NHAI LẠI
Việc chẩn đoán có thể tiến hành trên súc vật còn sống hoặc đã chết. Tuỳ điều kiện
thực tế mà áp dụng biện pháp phù hợp.
- Đối với súc vật còn sống:
Để chẩn đoán bệnh do Fasciola  gây ra, thường áp dụng các biện pháp như: chẩn  đoán
lâm sàng, kết hợp đặc điểm dịch tễ học, xét nghiệm phân con vật nghi bệnh và  chẩn đoán
miễn dịch học.
Triệu chứng lâ m sàng của bệnh sán lá gan thường thấy nhất là: kiệt sức, suy
nhược, rụng lông, phù thũng ở ngực, ức.... Tu y nhiên, các biểu hiện trên không chỉ  thấy
ở bệnh do  Fasciola  gây nên. Vì vậy, triệu chứng lâm sàng không phải là căn cứ  duy nhất
để kết luận bệnh.
Những dẫn liệu dịch tễ học của bệnh cần xem xét là: yếu tố mùa vụ, vùng và tuổi  súc
vật bệnh. Song, những dẫn liệu này chỉ là những thông tin cần xem xét trong chẩn  đoán chứ
không phải là sở cứ quan trọng nhất trong chẩn đoán.
Việc xét nghiệm phân tìm trứng  Fasciola  là biện pháp có tính quyết định trong
chẩn đoán. Thường dùng phương pháp gạn rửa nhiều lần. Th eo Phạm Văn Khuê và cs
(1996), phương pháp này phổ biến nhưng chưa phát hiện được tất cả mọ i gia súc
nhiễm sán  Fasciola,  nhất là ở những súc vật nhiễm ít hoặc ở giai đoạn sán còn non.
Khi xét nghiệm phân, cần phân biệt trứng  Fasciola  với trứng  Paramphis tomum  ký sinh
ở dạ cỏ (phân biệt về màu sắc, hình dạng, tế bào noãn hoàng và kích thước).
Phương pháp miễn dịch học để phát hiện súc vật nhiễm  Fasciola  đã được sử
dụng là: dùng kháng nguyên tiêm nội bì, căn cứ vào phản ứng ở nơi tiêm để kết luận. Các
phương pháp khác như: phương pháp miễn dịch men ELISA, phương pháp miễn  dịch
huỳnh quang.... Tuy nhiên, do khó khăn về phương tiện và việc chế kháng nguyên  chuẩn
nên các phương pháp này còn ít được dùng trong bệnh ký sinh trùng nói chung  và bệnh
sán lá gan nó i riêng.
- Đối với súc vật chết:
Khi súc vật chết, mổ khám tìm sán Fasciola ở giai đoạn ấu trùng và trưởng thành
134   trong ống dẫn mật, gan, xoang bụng.... Phương pháp này chính xác hơn cả, vì tìm thấy  cả
sán non ở giai đoạn di hành.
5. PHÒNG VÀ  TRỊ B ỆNH SÁN LÁ GAN
5.1. Điều trị bệnh
Hiện nay, có thể tẩy sán lá gan cho súc vật nhai lại bằng một trong các loại thuốc
-  Thuốc Dertil: Dertil là thuốc có tác dụng đặc hiệu với sán lá gan  Fasciola.  Tên
khác: Menichlofolan, Bayer ME 3625, Bayer 9015A, Bilevon M.
Dertil được bào chế thành viên to, màu xanh lá cây đậ m.. Viên De rtil "O" có
chứa 100 mg hoạt chất, viên De rtil " B" chứa 300 mg hoạt chất.
Dertil có tác dụng diệt sán lá gan trưởng thành ở gia súc nhai lại, với liều cao còn  diệt
được cả sán non   đang di hành trong nhu mô gan. Thuốc chỉ cần dùng một lần,  không
cần điều trị lặp lại. Được chỉ định điều trị bệnh sán lá gan cấp tính và mãn tính  cho gia súc
nhai lại.
Liều lượng:
Bò: 5 -  6 mg/kgTT.
Trâu: 8 - 9 mg/kgTT
Dê, c ừu : 5  -  8 mg/ kgTT (thể mãn   t ính : 5  -  6 mg/ kgTT, thể cấp t ính : 7  -  8
mg/kgTT).
Cho từng cá thể uống thuốc, hoặc gói thuốc vào lá chuối non, đưa sâu vào miệng  cho
con vật nuốt.
- Thuốc Fasciolid (tên khác: Fasciolidum)
Thuốc được bào chế dưới dạng dung dịch màu vàng nâu, chứa 25%  hoạt chất là
Nitroxynil.
Fasciolid có tác dụng tẩy sán lá gan  Fasciola  dạng trưởng thành và các giun tròn
đường tiêu hoá loài nhai lại, được chỉ định tẩy sán lá gan cho gia súc nhai lại.
Liều lượng: 0,04 ml/kgTT (l ml/25 kgTT, tương đương 1 mg hoạt chất/ kgTT).
Tiêm dưới da.
Để tẩy sán lá gan, nên dùng thuốc 2 - 3 lần, cách nhau 25 - 30 ngày.
- Thuốc Tolzan - F (chế phẩm của Oxyclozanid), được bào chế dưới dạng dung dịch
hoặc viên nén, dùng với liều 10  -   11 mg/kgTT. Thuốc có tác dụng đặc hiệu với  sán
Fasciola trưởng thành và sán non ở trâu, bò, dê, cừu.
Hiện nay, trên thị trường thuốc thú y thấy phổ biến thuốc Tolzan  - F dạng viên nén,
cho uống tẩy sán Fasciola với liều 1 v iên (1000 mg)/90  -  100 kgTT.
Tolzan - F đã được sử dụng cho trâu, bò ở nước ta, s ong chưa có kết quả nghiên
135   cứu thử nghiệm tẩy sán lá gan cho dê, vì vậy cần thử nghiệm trước khi dùng đại trà.
-  Thuốc Fasinex (chế phẩm của Triclabendazole): thuốc có tác dụng diệt cả sán
non và sán trưởng thành ký sinh ở ống dẫn mật hoặc đang di hành trong các nhu mô
gan.
Fasinex được chỉ định dùng điều trị bệnh sán lá gan cho súc vật nhai lại.
Liều lượng: 10 - 12 mg/kgTT. Cho uống một lần duy nhất.
Thuốc có hiệu lực cao và an toàn cho gia súc dùng thuốc.
Ngoài các thuốc trên, Albendazole, Bithionol, Closantel.... cũng có tác dụng tẩy  sán
lá Fasciola ở súc vật nhai lại.
Lương Tố Thu và cs (1997) đã nhận định về các thuốc trị sán lá gan và kết quả
thử nghiệm ở t râu, bò Việt Na m. Các tác giả khuyến cáo rằng, trên thị trường Việt
Nam hiện nay nên sử dụng Fasinex - 900 dạng viên (l viên/75 - 100 kim) hoặc Fasinex
- 900 dạng sữa (l0 ml/100 kgTT), cho hiệu lực cao.
Sử dụng Fasinex liều 12 mg/ kgTT tẩy sán lá gan cho trâu, Phan Lục và Trần
Ngọc Thắng (1999) cho biết, thuốc có hiệu lực và hiệu   lực tẩy sạch sán đều đạt 100% .
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2000) đã thử nghiệm một số thuốc tẩy sán lá gan cho
dê địa phương ở tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kim, kết quả thấy: thuốc Dertil (liều 5  -  8
mg/kgTT) có tác dụng tẩy sạch 100% và an toàn đối với dê; thuốc Fasciolid (liều 0,04
ml/kgTT) có hiệu lực tẩy sạch là 95% và tương đối an toàn cho dê; thuốc Vermitan
(chứa 20% Albendazole, liều 35 mg/kgTT) đạt hiệu lực tẩy sạch và an toàn đều là
100%, ngoài ra Ve rmitan còn có tác dụng tẩy cả sán dây và giun trò n ở dê.
5.2. Phòng bệnh sán lá gan Fasciola
Cơ sở khoa học đề ra quy trình phòng ngừa tổng hợp bệnh sán lá gan cho súc vật nhai
lại là: phải nắm được cụ thể chu kỳ sinh học của sán  Fasciola,  sinh học của ốc  -vật chủ trung gian và tình hình dịch tễ của b ệnh.
Biện pháp phòng ngừa tổng hợp gồm:
- Định kỳ tẩy sán lá gan cho súc vật nhai lại để ngăn chặn mầ m bệnh phát tán rộng
rãi, đồng thời phòng ngừa cho súc vật không bị tái nhiễm.
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), hàng năm nên tẩy sán cho toàn đàn ít nhấ t 2
lần, lần đầu vào mùa xuân (trước mùa vật chủ trung gian phát triển), lần thứ hai vào
cuối mùa thu nhằm diệt những sán đã nhiễm trong vụ Xuân  -  Hè, ngăn ngừa bệnh phát
ra ở mùa đông. Trên những đồng cỏ có căn bệnh tiềm tàng, có thể tiến hành chăn dắt
luân phiên giữa súc vật mẫn cảm (trâu, bò, dê, cừu) với những súc vật ít khả năng cảm
nhiễm (ngựa).
-  Ủ phân theo phương pháp sinh học, lợi dụng quá trình lên men sinh nhiệt các
chất hữu cơ trong phân của hệ vi sinh vật để tiêu diệt trứng sán lá gan t rong phân súc
136   vật nhai lại Biện pháp n ày có h iệu quả và đơn g iản nhất để phòng bệnh do sán
Fasciola gây ra.
-  Xử lý các cơ quan có sán ký sinh: nếu gan nhiễm nhiều sán phải huỷ bỏ (chôn rắc
vôi bột, đến hoặc không huỷ bỏ mà để lại chế biến chín  làm thức ăn gia súc.
-  Diệt vật chủ trung gian của sán lá  Fasciola:  tháo cạn nước, là m khô những
đồng cỏ bãi chăn lầy lội, ẩm ướt. Dùng một số chất hoá học có khả năng diệt ốc (vôi
bột, sulfat đồng....), đẩy mạnh chăn nuôi thuỷ cầm (vịt, ngan, ngỗng) và  cá trắm đen.
Tăng cường vệ sinh thức ăn, nước uống. Không chăn thả súc vật nhai lại ở những
bãi chăn lầy lội, ẩm thấp. Nếu khó khăn về bãi chăn thả thì chỉ chăn ở bãi chăn lầy lội,
ẩm ướt 1,5  -  2 tháng, rồi phải chuyển sang chăn ở bãi khác. Nếu lấy cỏ  ở những chỗ
ẩm ướt thì phải cắt cao hơn mặt nước để tránh  Adolescaria,  sau đó phơi khô, bảo quản
trong 6 tháng rồi cho gia súc ăn. Nguồn nước uống phải sạch, không có vật chủ trung
gian và Adolescaria.
- Không nhập súc vật nhai lại từ vùng có bệnh, khi chưa kiểm tra và điều trị triệt
để.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét