Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014
BỆNH TIÊN MAO TRÙNG Ở TRÂU, BÒ, NGỰA (Trypanosomiasis)
BỆNH TIÊN MAO TRÙNG Ở TRÂU, BÒ, NGỰA
(Trypanosomiasis)
Bệnh tiên mao trùng đƣợc Blanchard (1888) phát hiện đầu tiên ở Việt Nam. Sau đó,
bệnh đƣợc x ác định là phổ biến ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nƣớc. Bệnh do loài tiên
mao trùng Trypanosoma evansi gây ra. Trâu, bò, ngựa mắc bệnh dễ chết hoặc thiếu máu,
suy nhƣợc, giảm hoặc mất khả năng sinh sản và sức sản xuất.
1. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI, CẤU TRÚC VÀ PHÂN LOẠI TIÊN MAO TRÙNG
1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Levine et al (1980) (dẫn theo Lƣơng Văn Huấn và cs, 1997), vị trí của tiên
mao trùng trong hệ thống phân loại nguyên bào (Protozoa) nhƣ sau:
Ngành Sarcomastigophora
Phân ngành Mastigophora
Lớp Zoomastigophorasida
Bộ Kinetoplastorida
Phân bộ Trypanosomatorida
Họ Trypanosomatidae Donein, 1901
Giống Trypanosoma Gruby, 1843
Phân giống Megatrypanum Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (M) thei leria
Phân giống Herpetosoma Donein, 1901
Loài Trypanosoma (H) leisi
Phân giống Schizotrypanum Chagas, 1909
Loài Trypanosoma (S) cl~llzi
Phân giống Duttonella Chalmers, 1918
Loài Trypanosoma (D) vivax
Loài Trvpanosoma (D) uniform
Phân giống Nalm omonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (N) congolense
242 Loài Trypanosoma (N) siminae
Loài Trypanosoma (N) vanhogi
Phân giống Trypanozoon Liihe, 1906
Loài Irypanosoma (T) brucei
Loài Trypanosoma (T) gambience
Loài Trypanosoma (T) rhodesiens e
Loài Trypanosoma (T) equiperdum
Phân giống Pycnomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (P) suis
Phân giống Trypanosoma Gruby, 1843
Loài Trypanosoma evansi (Steel, 1885)
Theo phân loại trên, trong một giống có thể có một số giống phụ. Trƣờng hợp này,
tên của loài tiên mao trùng gồm tên giống + tên giống phụ + tên loài. Tuy nhiên, để ngắn
gọn, ngƣời ta gọi tên các loài tiên mao trùng bằng tên giống + tên cuối của loài. Ví dụ,
T. brucei, T. evansi...
Trong các loài tiên mao trùng trên, có 7 loài đƣợc t ổ chức dịch tễ quốc tế (OIE)
thông báo là có khả năng gây bệnh cho ngƣời và động vật có vú, đó là: T. brucei, T.
congolense, T. cruzi, T. evansi, T. gambiense, T. siminae, T. vivax.
1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của tiên mao trùng
Tiên mao trùng T. evansi đƣợc xếp vào loại đơn hình thái, cơ thể chỉ là một tế bào,
có kích thƣớc nhỏ, chiều dài 18 - 34 μm (trung bình là 25 μm), chiều rộng 1,5 - 2 μm. Cơ
thể có hình suốt chỉ mảnh hoặc hình thoi, cuối thân nhọn.
Nhìn chung, cấu trúc cơ bản của T. evansi cũ ng giống nhƣ cấu trúc của các loài tiên
mao trùng khác thuộc họ Trypanosomatidae. Cấu trúc từ ngoài vào trong đƣợc chia
thành 3 phần chính:
- Vỏ: ngoài cùng là lớp vỏ dày 10 - 15 nm, vỏ đƣợc chia làm 3 lớp (lớp ngoài và
lớp trong cùng tiếp giáp với nguyê n sinh chất dầy hơn lớp giữa). Lớp vỏ ngoài cùng
đƣợc cấu tạo từ các phân tử glycoprotẻin luôn biến đổi (Vanant Glycoprotein Surface -VGS). Tiếp giáp với lớp trong cùng là 9 cặp vi ống xếp song song dọc theo chiều dài
thân tiên mao trùng. Chính nhờ sự s ắp xếp của các cặp vi ống nên tiên mao trùng có
dạng hình suốt chỉ mảnh (Hoare, 1972; Phạm Sỹ Lăng, 1982; Nguyễn Quốc Doanh,
1999).
- Nguyên sinh chất: gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh chất có chứa
các nội quan: ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào màu sáng, kinetoplast
243 (thề cơ động), mitochrondno, reticulum (lƣới nội bào) và mạng lƣới golgi.
- Nhân: nhân tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình trứng. Nhân
thƣờng nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ thể. Ngoài nhân, về phái cuối
thân còn có thể kinetoplast chứa AND (KADN). Từ kinetoplast có một roi chạy vòng
quanh thân lên đầu và ra phía ngoài cơ thể thành một roi tự do.
Roi của tiên mao trùng có lớp vỏ ngoài cùng giống lớp vỏ của thân. Trong roi có 9
cặp vi ống ở xung quanh và một cặp ở trung tâm, xếp song song dọc chiều dài roi (Hoa
re, 1972; Nguyễn Quốc Doanh, 1999).
Hình 116. Cấu tạo của Trypanosoma
A. Roi; B. t ổ hợp cytoskelet on; C. Nhân; D. Mitochondrion; E. Thể cơ động kinet opla st :
F. Thể đặc; G. t úi t iên mao; H. phần t hân chính; 1. Golgi; J. Lƣới nội sinh chất ; K. màng rung;
L. Chỗ t iếp xúc roi với màng rung; M. chỗ t iếp xúc roi với thân.
1.3. Cấu trúc kháng nguyên của tiên mao trùng Trypanosoma evansi
Kháng nguyên của T. evansi gồm hai loại: kháng nguyên ổn định (kháng nguyên
không biến đổi) và kháng nguyên biến đổi
1.3.1. Kháng nguyên ổn định (kháng nguyên không biến đổi)
Phấn lớn các thành phần kháng nguyên tiên mao trùng không biến đổi trong quá
trình sống ký sinh. Bằ ng phƣơng pháp điện di miễn dịch huyết thanh thỏ tối miễn dịch
với T. evansi, Kageruka (1982) đã phát hiện tới 30 thành phần kháng nguyên khác
nhau. Có ba loại kháng nguyên không biến đổi ở màng nguyên sinh chất tế bào (ISG:
Invanant Surface Glycoprotein): ISG 65, ISG 75 và ISG 100. Do cấu trúc không gian
ba chiều và đặc tính ƣa nƣớc, các loại này không kết hợp với kháng thể của vật chủ
(Nghìn, 1997).
1.3.2. Kháng nguyên biến đổi
Về kháng nguyên biến đổi, cần đề cập đến sự biến đổi lớp vỏ bề mặt VS G
(Variant Surface Glycoprotein), những quan điểm mới về sự xuất hiện kháng nguyên biến
đổi của tiên mao trùng và cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi.
* Sự biến đổi lớp vỏ bề mặt VSG
244 Nhờ kháng thể đặc hiệu đƣợc đánh dấu mà Vickerman và Luc kins (1969) đã phát hiện
ra sự biến đổi của lớp kháng nguyên bề mặt. Cross (1975) đã mô tả lớp áo bề mặt của tiên
mao trùng có thành phần là glycoprotein bao phủ toàn bộ bề mặt tế bào bằng một lớp phân
tử giống nhau (mỗi tiên mao trùng có 107 phân tử). Lớp áo bề mặt này kích thích cơ thể
vật chủ tạo ra kháng thể đặc hiệu với từng type kháng nguyên biến đổi VAT (Variable
Antigen Type). Chỉ có kháng nguyên biến đổi mới có khả năng kích thích vật chủ tạo
miền dịch chủ động. Ngƣời ta ƣớc lƣợng rằng, một con tiên mao trùng có ít nhất vài trăm
hoặc vài nghìn VSG, nghĩa là 5 - 10% số tiền của tiên mao trùng cung cấp cho kháng
nguyên bề mặt này.
* Quan điểm mới về sự xuất hiện kháng nguyên biến đổi của tiên mao trùng
Nhiều tác giả nghiên cứu về miễn dịch học cho rằng, tiên mao trùng biến đổi
kháng nguyên bề mặt để né tránh miễn dịch đặc hiệu của vật chủ.
Tuy nhiên, Van Meirvenne (1975) cho biết, sự biến đổi kháng nguyên bề mặt của ký
sinh trùng đã có ngay ở pha đầu tiên của quá trình nhiễm (trƣớc khi xuất hiện đáp ứng
miễn dịch của cơ thể vật chủ). Theo Hajduc và Vickernlan (1981), hiện tƣợng biến đổi
kháng nguyên bề mặt của tiên mao trùng còn thấy ở gia súc đã bị tiêm thuốc làm suy giảm
miễn dịch. Những quan điểm này là hoàn toàn mới để lý luận về sự xuất hiện khá ng nguyên
biến đổi của tiên mao trùng.
Nhƣ vậy, quan điểm về sự biến đổi kháng nguyên lớp vỏ của tiên mao trùng cho đến
nay vẫn chƣa thống nhất.
* Cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi
Khi kháng thể đặc hiệu kết hợp với phân tử của kháng nguyên bề mặt (VSG), là m
tiêu tan tiên mao trùng thì đó cũng là nguyên nhân chính thúc đẩy sự hoạt hoá của đen. Kết
quả là các phân tử kháng nguyên VSG đƣợc thay đổi hoàn toàn bằng các phân tử VSG
mớ i. Lúc này, kháng thể đặc hiệu lúc trƣớc đã không còn tác dụng đối với kháng nguyên
mới này.
Theo Barry và Tumer (1991), Pays và cs (1994), Vanhamme và cs (1995), các
VSG đƣợc mã hoá nhờ các đen chuyên biệt. Từ kho chứa hàng nghìn đến khác nhau,
một đen VSG đƣợc hoạt hoá một cách chọn lọc, dẫn đến tổng hợp ra một loại kháng
nguyên VSG. Mỗi bên VSG mớ i tạo ra một loại kháng nguyên VSG mớ i. Trong bộ
đen của tiên mao trùng tồn tại một số lớn đen VSG, các đen này sử dụng nhiều cơ chế
sắp xếp khác nhau, do vậy tiên mao trùng đã tạo ra nhiều VSG khác nhau ở gia súc bị
bệnh mãn tính. Cơ chế biến đổi kháng nguyên theo 2 cách: cách thứ nhất là, sử dụng
lần lƣợt các điểm biểu hiện trên (expression si de) khác nhau, không có sự sắp xếp của
ADN. Các điểm biểu hiện khác nhau sẽ mang các đen VSG khác nhau, sự luân phiên
này dẫn đến sự thay đổi type kháng nguyên. Cơ chế này quan sát đƣợc chủ yếu ở giai
đoạn đầu của quá trình cảm nhiễm. Có lẽ ở giai đoạn đầu này chƣa có đáp ứng miễn
dịch của vật chủ đối với VSG, chính điều này không gây ra một cản trở hoạt hoá tự
245 nhiên của các điểm biểu hiện trên này. Cách thứ hai là, tập hợp lại các đoạn ADN khác nhau
để tái tổ hợp đen, mà việc tái tổ hợp này cho phép thay thế hoàn toàn hoặc từng phần đen;
hoặc việc thay thế diễn ra dựa vào sự chuyển đổi đen chứ không phải dựa vào tái tổ hợp
đen. Trƣờng hợp này đƣợc diễn giải nhƣ sau: một đến hoạt hoá đƣợc thay thế bằng bản
sao chép của một đen khác. Do có sự thay thế một phần của tiền nên đã tạo ra loại nên phức
hợp và đặc trƣng.
2. DỊCH TỄ HỌC B ỆNH TIÊN MAO TRÙNG
2.1. Phân bố của bệnh
Bệnh tiên mao trùng phân bố rất rộng, từ phía tây sang phía đông bán cầu. Phía tây
bán cầu thuộc châu Mỹ, phía đông bán cầu trải dài từ châu Phi cho đến Philippine. Theo
Euzeby (1984), bệnh phổ biến ở trâu, bò, ngựa các nƣớc nhiệt đới ở châu Phi, châu Á và
Nam Mỹ.
Ở châu Phi, bệnh trải dài từ tây sang đông, phía bắc qua vùng sa mạc Sahara, dọc theo
bờ biển Atlantique Địa trung hải.
Bệnh tiên mao trùng xảy ra với tên gọi "bệnh Surra” ở Ả rập Saudi, Yê men,
Sultanate, Ả Rập thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Syrie, Afganistan, Pakistan.
Ở châu Á, bệnh xuất hiện ở Trung Á (thuộc Liên Xô cũ), Ấn Độ, Malaysia, bán đảo
Đông Dƣơng, Trung Quốc, Indonexia, Philippine.
Ở châu Âu, bệnh xuất hiện ở Bungaria (nay đã đƣợc thanh toán), hiện chỉ còn ở vùng
Volga và Nam Capcase (Liên Xô cũ).
Ở châu Mỹ, bệnh xuất hiện ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, đặc biệt phổ biến ở Brazil,
Mexico, Venezuela, Colo mbia.
Châu Öc cũng đã đƣợc xác định là có bệnh tiên mao trùng (Reid, 2002).
Losos G. T. (1972) cho rằng, bệnh tiên mao trùng phổ biến nhất ở châu Á và
châu Phi, từ Ấn Độ đến Srilanca, Trung Quốc, Indonexia, Thái Lan, Lào, Camphuchia, nan,
Philippine.
Ở Việt Na m, bệnh tiên mao trùng thấy ở hầu hết các vùng sinh thái khác nhau:
miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Theo Phạm Sỹ Lăng (1982), bệnh tiên mao
trùng có ở tất cả các tỉnh miền Bắc (Bắc Kim, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên,
Ninh Bình, Hà Tây). Trâu, bò nhiễm bệnh với tỷ lệ cao và thay đổi giữa các vùng khác
nhau (trâu, bò ở đồng bằng nhiễm tiên mao trùng cao hơn vùng trun g du và miền núi,
đặc biệt ở trâu, bò có nguồn gốc từ miền núi chuyển xuống vùng đồng bằng).
2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng
Trong tự nhiên, tiên mao trùng ký sinh ở hầu hết các loài thú nuôi và thú hoang, thấy
nhiều hơn ở trâu, bò, ngựa, trâu bò rừng, hƣơu, nai, hổ, báo, sƣ tử, chó, mèo, lạc đà, voi
thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch..., nhƣng không ký sinh ở ngƣời.
246 Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) đã điều tra tình hình nhiễm tiên mao trùng ở trâu bò Việt
Na m. Kết quả cho thấy, trâu bò nhiễm tiên mao trùng với tỷ lệ cao (21,27%), trong đó
trâu bò nuôi ở các tỉnh miền núi phía Bắc nhiễ m T. evansi cao hơn ở đồng bằng. Theo Lê
Đức Quyết và cs (1995), Phạm Chiến (1999), trâu ở một số tỉnh miền Nam và Tây
Nguyên nhiễm tiên mao trùng là 22,12%; bò là 6,6 - 10,3%. Phan Lục và Nguyễn Văn
Thọ (1995) cho biết, tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng của bò ở một số địa phƣơng miền Bắc
là 5,9%. Theo Hà Viết Lƣợng (1998), tỷ lệ bò nhiễm tiên mao trùng ở các tỉnh miền Trung
là 8,99%.
Sự lây truyền t iên mao trùng từ trâu, bò ốm sang trâu, bò khoẻ là nhờ các loài
ruồi hút máu (thuộc họ phụ Stomoxydinae) và c ác loà i mồng hút máu (thuộc họ
Tabanidae). Ruồi và mong hút máu của gia súc bị bệnh, hút luôn cả tiên mao trùng
vào vòi hút, sau đó lại hút máu gia súc khoẻ, trong khi hút máu sẽ truyền tiên mao
trùng từ vòi hút vào máu con vật khoẻ. Sự lây truyền này mang tính chất cơ học. Nhƣ
vậy, ruồi và mong hút máu là những vật môi giớ i truyền bệnh tiên mao trùng quan
trọng.
Hình 117. Côn trùng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng
Theo Phan Địch Lân (1974, 1994, 2004), phần lớn các loài mồng tập trung ở khu vực
miền núi và trung du. Trong 53 loài móng thì có tới 44 loài phân bố ở vùng rừng núi có độ
cao dƣới 1 .000 mét so với mặt nƣớc biển , càng lên cao số loài càng ít dần (độ cao trên 1
.000 mét chỉ có 26 loài). Ở vùng trung du (rừng thƣa, độ cao không quá 500 mét so với
mặt nƣớc biển có 27 loài; vùng đồi trọc chỉ có 9 - 11 loài; vùng rừng núi ven biển phát
hiện chỉ có 8 loài.
Những loài mồng phổ biến ở tất cả các vùng là: Tabanus rubidus, T. striatus,
Chrysops dispar, Chrysozo ma assamensis.
247 Nh ững loà i mạng chỉ gặp ở vùng núi là : Tabanus flav istriatus, T. fu mifer,
Chrysops vander.
Miền Bắc nƣớc ta có 4 loài ruồi hút máu, 2 loà i phổ biến ở tất cả các vùng là
Stomoxys calcitrans và Liperosis exigua; 2 loài chỉ thấy ở những vùng sinh cảnh đặc biệt:
loài Bdellolarynx sanguinolentus (chỉ xuất hiện ở vùng có độ cao dƣới 1.000 mét),
loài Stomoxys indica (chỉ thấy ở vùng núi Cẩ m Thuỷ - Thanh Hoá).
Phan Địch Lân (1994, 2004) cho biết, kiể m tra ở nhiều địa điể m thấy hai loài
mồng T. rubidus và T. striatus mang tiên mao trùng với tỷ lệ 15,2% và 14,0%; ruồi hút
máu Stomoxys calcitrans mang tiên mao trùng với tỷ lệ 12,5%. Ở những vùng đang có
bệnh tiên mao trùng, kiểm tra ruồi và mong hút máu dễ dàng tìm thấy tiên mao trùng.
Sau khi theo máu vào vòi hút ruồi và mong, tiên mao trùng vẫn sống đến giờ thứ 53,
thời gian hoạt động mạnh nhất là từ giờ thứ nhất đến giờ thứ 34 trung bình là 24 giờ. Sự
hoạt động của tiên mao trùng yêu dần từ giờ thứ 35 đến 42. Từ 46 - 53 giờ thì tiên mao
trùng ngừng hoạt động.
Hình thái tiên mao trùng khi ở trong vòi ruồi, mồng biến đổi theo thời gian: từ 1 -34 giờ có hình thái, kích thƣớc bình thƣờng; 35 - 45 giờ: tiên mao trùng có hình dạng thay
đổi, tăng kích thƣớc chiều rộng và thô dần; 46 - 53 giờ: tiên mao trùng trƣơng to, duỗi
thẳng, mất khả năng di động và ngừng hẳn hoạt động.
Thực nghiệm đã chứng minh khả năng gây bệnh của tiên mao trùng sau khi xâ m
nhậ p vào mồng Tabanus rubidus nhƣ sau: Thời gian từ giờ thứ 1 đến thứ 5, tiên mao
trùng có khả năng gây bệnh và làm chết chuột bạch tƣơng tự nhƣ khi truyền thẳng máu
có tiên mao trùng cho chuột; từ giờ thứ 6 đến thứ 7 chỉ còn 30% số chuột thí nghiệm
phát bệnh, thời gian gây bệnh kéo dài và thời gian chết của chuột cũng dài. Điều này
có thể giải thích là, do độc lực của tiên mao trùng giảm dần và số lƣợng tiên mao trùng
còn hoạt lực gây bệnh cũng giảm dần sau khi chúng xâ m nhập vào mồng Tabanus
rubidus
2.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc bệnh
Trâu, bò và các loài gia súc khác ở mọi lứa tuổi đều nhiễm tiên mao trùng và đều phát
bệnh, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy nhƣợc, thiếu máu, giảm sức đề kháng, giảm khả
năng sinh đẻ và sức sản xuất.
Phan Địch Lân (1994, 20 04) đã tổng hợp kết quả điều tra 3.172 trâu ở các tỉnh đồng
bằng: trâu dƣới 3 năm tuổi nhiễm thấp nhất (3,2 - 6,l%), trâu 3 - 5 tuổi nhiễm cao hơn (lo 6 -12,7%), trâu 6 - 8 tuổi nhiễm cao nhất (12,9 - 14,8%), trâu trên 9 năm tuổi tỷ lệ nhiễm
giảm thấp hơn trâu 3 - 8 năm tuổi.
Theo Phan Văn Chinh (2006), tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng cao nhất ở 4 - 8 năm
tuổi (t râu : 12,71%; bò : 5,77%), thấp nhất là t râu, bò d ƣớ i 3 nă m tuổi (6,92% và
2,31%). Mùa lây lan bệnh thƣờng xảy ra trong cá c tháng nóng ẩ m, thƣa nhiều (từ
248 tháng 4 đến tháng 9). Thời gian này điều kiện sinh thái thuận lợi cho các loài ruồi,
mồng phát triển, hoạt động mạnh. hút máu súc vật và truyền tiên mao trùng. Theo
Luckins (1988), sự xuất hiện lƣợng lớn ruồi, mồng trong mùa mƣa nóng ẩm luôn có liên
quan đến tình hình dịch tễ bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò, dê, lạc đà. Từ cuối mùa thu, mùa
đông và đầu mùa xuân, trâu bò nhiễm tiên mao trùng phải sống trong điều kiện thời tiết
lạnh, thiếu thức ăn nên sức đề kháng giảm, bệnh thƣờng phát ra vào t hời gian và trâu bò bị
đổ ngã hàng loạt.
Tiên mao trùng có sức đề kháng yếu, dễ chết khi tiếp xúc với nƣớc cất, cồn và
thuốc sát trùng.
3. ĐẶC ĐIỂM B ỆNH LÝ VÀ LÂM SÀNG CỦA B ỆNH
3.1. Đặc điểm bệnh lý
Khi ruồi trâu, mòng đốt, hút máu và truyền tiên mao t rùng vào trâu, bò, ngựa, tiên
mao trùng xâm nhập vào da, gây ra vết viêm trên mặt da. Theo Luckins (1992), có thể quan
sát đƣợc phản ứng viêm ở da của thỏ, cừu, dê và bò gây nhiễm thực nghiệm tiên mao
trùng, kích thƣớc chỗ viêm phụ thuộc vào số lƣợng tiên mao trùng đƣợc tiêm truyền (ƣớc
chừng khoảng 108 t iên mao trùng có thể gây v iê m da - ở vị t rí t iê m truyền), một số
lƣợng lớn tiên mao trùng phát triển ở tại chỗ viêm này.
Vào máu, t iên mao trùng nhân lên theo cấp số nhân ở trong máu, t rong bạch
huyết và ở trong các mô khác của cơ thể vật chủ theo cách phân chia theo chiều dọc.
Số lƣợng tiên mao trùng trong máu không phải lúc nào cũng nhƣ nhau. Mật độ tiên
mao trùng thay đổi theo ngày. Biểu đồ sóng tiên mao trùng cho thấy, xen kẽ giữa
những sóng tiên mao trùng mạnh là những đợt sóng yếu. Mỗi đợt sóng tiên mao trùng
bắt đầu bằng sự tăng số lƣợng tiên mao trùng trong máu, sau đó giảm và khó phát hiện
thấy tiên mao trùng. Mỗi đợt tiên mao trùng tăng lên trong máu là biểu hiện sự xuất
hiện một quần thể tiên mao trùng có tính kháng nguyên bề mặt mới, quần thể này có
thể tiếp tục sinh sản và tồn tại một thời gian cho đến khi cơ thể xuất hiện kháng thể đặc
hiệu với chúng. Tiên mao trùng phát triển nhanh trong máu, tiêu thụ Glucose và các
chất đạm, chất béo và khoáng chất trong máu ký chủ bằng phƣơng thức thẩm thấu qua
bề mặt cơ thể để duy trì hoạt động và sinh sản. Ở súc vật bị bệnh, trong 1 mi máu có
thể có 10.000 - 30.000 tiên mao trùng. Với số lƣợng nhiều nhƣ vậy, tiên mao trùng
chiếm đoạt dinh dƣỡng nhiều, làm cho súc vật bệnh gây còm, thiếu máu và mất dần
khả năng sản xuất sữa, thịt, mất dần khả năng sinh sản và giảm sức đề kháng với các
bệnh khác.
Sống trong máu vật chủ, tiên mao trùng còn tạo ra độc tố Trypanotoxin, độc tố này
gồm: độc tố do tiên mao trùng tiết ra qua màng thân trong quá trình sống và độc tố do xác
chết của tiên mao trùng phân huỷ trong máu sau 15 - 30 ngày.
Độc tố của tiên mao trùng tác động lên hệ thần kinh trung ƣơng làm rố i loạn
trung khu điều hoà thân nhiệt, gây sất cao và gián đoạn (lúc sốt, lúc hết sốt xen kẽ
249 nhau). Khi sốt thƣờng có rối loạn về thần kinh (kêu rống, run rẩy, ngã vật xuống). Độc
tố cũng phá huỷ hồng cáu, ức chế cơ quan tạo máu làm cho vật chủ thiếu máu và suy
nhƣợc dần. Độc tố còn tác động tới bộ máy tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá, làm con vật
ỉa chảy. Hội chứng tiêu chảy thƣờng xảy ra khi xuất hiện tiên mao trùng trong máu con
vật bệnh.
Khi tăng lên với số lƣợng lớn trong máu, tiên mao trùng còn làm tắc các mao
mạch, làm tăng tính thấm thành mạch, dần dần tạo ra các ổ thuỷ thống chất keo vàng
dƣới da.
3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò, ngựa
3.2.1. Ở trâu, bò
Trau, bò bị bệnh thể hiện các triệu chứng lâm sàng chủ yếu nhƣ sau:
- Sốt cao và gián đoạn: sau 14 - 30 ngày bị ruồi, mồng hút máu truyền tiên mao
trùng, trâu bò thƣờng đột ngột lên cơn sốt (40 - 41,7
0
C) kéo dài 2 - 4 ngày rồi giảm, thời
gian sau nhiệt độ lại tăng lên. Thời gian gián đoạn giữa hai cơn sốt dài hay ngắn tuỳ theo
thể trọng con vật. Khi sất, kiểm tra máu thƣờng thấy tiên mao trùng.
- Hội chứng thần kinh: ở một số trâu, bò khi lên cơn sốt còn thể hiện hội chứng
thần kinh nhƣ điên loạn, mắt đỏ ngầu, húc đầu vào tƣờng, chạy vòng quanh kêu rống
lên. Trƣờng hợp nhẹ thấy run rẩy từng cơn, mắt trợn ngƣợc rồi đổ ngã vật xuống, sùi
bọt mép giống nhƣ trâu bị cảm nắng. Sau 20 - 30 phút con vật lại đứng dậy đi lại đƣợc.
Những trâu bò mắc bệnh có triệu chứng lâm sàng nhƣ trên thƣờng là mắc bệnh ở thể
cấp tính. Trâu, bò bị bệnh mạn tính thƣờng kéo dài, cơ thể suy yếu, liệt hai chân sau,
nằm tƣ thế quỳ và không đi lại đƣợc. Mặc dù nằm hệt nhƣng vẫn ăn và nhai lại cho
đến khi sắp chết. - Phù thũng dƣới da: phù thũng thƣờng thấy ở vùng thấp của cơ thể
nhƣ ở bốn chân (từ khớp khuỷu trở xuống), phần yếm, ngực, bộ phận sinh dục.
- Viê m giác mạc và kết mạc mắt: triệu chứng này thấy ở hầu hết trâu, bò bệnh. Mắt
có dử trắng hay vàng, chảy liên tục, nếu nặng thì mắt sƣng đỏ ngầu. Khi khỏi bệnh,
mắt có màng trắng (củi nhãn) kẻo che kín giác mạc.
- Hội chứng tiêu hoá: một số trâu, bò bệnh bị ỉa chảy nặng, phân lỏng, màu vàng,
sau chuyển màu xám, có lẫn bọt và chất nhầy. Các đợt ỉa chảy tiếp theo những cơn sốt
cách quãng. ỉa chảy trong bệnh tiên mao trùng thƣờng dai dẳng và con vật vẫn ăn
đƣợc.
- Gầy yếu, suy nhƣợc: ở thể bệnh cấp tính trâu, bò gầy sút nhanh, chỉ sau 7 - 14
ngày từ khi phát bệnh con vật đã gầy rộc, mắt trũng sâu. Nếu bệnh kéo dài thì con vật gầy
xơ xác, lông dựng ngƣợc, da khô nhăn nheo, niêm mạc mắt nhợt nhạt, lông dễ rụng,
dần dần suy nhƣợc cơ thể nặng, mất khả năng cày keo và sinh sản. Nếu gặp điều kiện bất
lợi nhƣ thiếu ăn, rét mƣớt thì trâu, bò dễ chết.
250 Trong thực tế, có khoảng 3% trâu bệnh ở thể ẩn vẫn béo khoẻ, làm việc b ình
thƣờng khi đƣợc ch ă m sóc nuôi dƣỡng tốt.
Tình trạng thiếu máu thể hiện rõ trong bệnh do T. evansi gây ra. Theo Silva Rams
và cs (1995), Smith R. D. (1995), số lƣợng hồng cầu và hàm lƣợng huyết sắc tố giảm,
số lƣợng bạch cầu tăng, thành phần bạch cầu thay đổi: bạch cầu ly mphô, bạch cầu ái
toan tăng nhƣng bạch cầu trung tính giảm, protein tổng số và Albumin giảm rõ rệt.
Phạm Sỹ Lăng, Lê Ngọc Mỹ (1984), Stephen (1986) cho biết, khi protein tổng số
251 và Albumin giảm thì các thành phần a, ~ và y globulin đều tăng, chỉ số A/G < 0,5.
3.2.2. Ở ngựa
Sau khi ruồi, mồng hút máu và truyền T. evansi, ngùn phát bệnh sau 1 - 2 tuần.
Triệu chứng rõ nhất là ngựa sốt 40 - 41
0
C, sất gián đoạn, khi sốt có tiên mao trùng ở
máu ngoại vi. Khi bị bệnh nặng, ngựa thƣờng sốt cao đột ngột, các triệu chứng khác
chƣa kịp thể hiện thì con vật đã lăn lộn điên cuồng rồi chết. Thể bệnh cấp tính diễn ra
khoảng 1 - 3 tuần, thể mãn tính kéo dài 2 - 4 tháng (tuy nhiên, thể mãn tính thƣờng ít
gặp).
Hiện tƣợng thuỷ thông xuất hiện ở vùng thấp của cơ thể (ngực, bụng, âm hộ, vú)
sau 1 - 2 tuần kể từ khi phát bệnh. Ngựa đi đứng xiêu vẹo, gầy sút rất nhanh, ăn kém,
da khô, lông dựng, bốn chân run rẩy, hay nằm, dần dần liệt chân, nằm một chỗ rồi
chết.
3.3. Bệnh tích của bệnh tiên mao trùng
Trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng khi chết gầy xơ xác, mổ khá m thấy có những biến
đổi bệnh tích đại thể rõ rệt ở hệ tuần hoàn và hô hấp: tim nhão, xoang bao tim tích nƣớc
vàng; phổi xung huyết và tụ máu từng đám nhỏ; gan sƣng to, nhạt màu; lách sƣng,
mề m nhũn và nhạt màu; hạch lâm ba sƣng và có tụ máu trong hạch; cơ nhão, màu nhợt
nhạt, nhát cắt rỉ nƣớc; xoang ngực và xoang bụng tích dịch màu vàng nhạt; có những đám
keo nhầy vàng dƣới vùng da thuỷ thững.
4. CHẨN ĐOÁN B ỆNH TIÊN MAO TRÙNG
4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Các biểu hiện lâm sàng đặc trƣng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò, ngựa không
phải lúc nào cũng phát hiện đƣợc. Rất nhiều gia súc mang bệnh nhƣng khó phát hiện
các triệu chứng đặc trƣng, nhất là đối với những gia súc mắc bệnh tiên mao trùng mãn
tính. Đối với gia súc mắc bệnh ở thể cấp tính, các biểu hiện bệnh đặc trƣng là sốt cao,
bỏ ăn, có triệu chứng thần kinh (điên loạn) và chết nhanh. Trâu bị bệnh mãn tính có
thể thấy triệu chứng: sốt gián đoạn, gầy còm, thiếu máu kéo dài, viêm giác mạc, phù
thũng ở bụng và chân sau, chết do kiệt sức (Phạm Sỹ Lăng, 1982). Triệu chứng sẩy
252 thau có th ể thấy ở trâu, bò b ị b ệnh t iên mao trùng (Nguyễn Đăng Kha i, 1995;
Kashiwazaki, 1998).
4.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Có nhiều phƣơng pháp chẩn đoán tiên mao trùng trong phòng thí nghiệm, mục đích
là phát hiện tiên mao trùng trong máu gia súc. Tùy từng trƣờng hợp bệnh, tuỳ điều kiện
mà có thể làm cùng lúc một số phƣơng pháp hoặc lựa chọn một phƣơng pháp phù hợp và
có độ chính xác cao.
4.2.1. Phương ph áp phát hiện tiên mao trùng trực tiếp
Muốn phát hiện tiên mao trùng trực tiếp, có thể áp dụng những phƣơng pháp sau: *
Phƣơng pháp xem tƣơi (Direct smear)
Khi sất, trong mao quản ngoại vi của gia súc mắc bệnh tiên mao trùng thƣờng có
T. evansi. Vì vậy, trƣờng hợp này nên lấy máu vùng ngoại vi để xem tƣơi.
Cho 1 giọt máu nhỏ lên phiến kính, đậy la men lên giọt máu để giọt máu dàn theo la
men thành một lớp mỏng. Soi dƣới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 20) để phát hiện tiên
mao trùng sống. Nếu có, thấy hồng cầu dạt từ bên nọ sang bên kia, chứng tỏ T. evansi
chuyển động trong huyết tƣơng, làm xao động các hồng cầu.
* Phƣơng pháp nhuộm Gie msa tiêu bản máu khô (Romanovsky)
- Phƣơng pháp giọt dầy
Đặt 1 giọt máu to vào giữa phiến kính, dùng một góc của đầu một phiến kính
khác ria t ròn giọt máu với đƣờng kính khoảng 1 - 1,25 c m. Để khô tự nhiên trong
khoảng 1 giờ, rồi cố định bằng cồn Methanol, nhuộm Giemsa [ 1 giọt Giemsa + 1 ml
dung dịch PBS (Phosphat Buffered Saline) pa = 7,2] trong 25 phút. Rửa tiêu bản dƣới
vòi nƣớc chảy nhẹ, để khô rồi soi dƣới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 100 hoặc 10 x
901.
Phƣơng pháp này có nhƣợc điểm là dễ làm tổn thƣơng tiên mao trùng, do đó khó
phân biệt đƣợc các loài khác nhau trong trƣờng hợp nhiễm nhiều loài tiên mao trùng cùng
một lúc.
253 - Phƣơng pháp giọt mỏng
Đặt 1 giọt máu cách 1 đầu phiến kính 2 em, dùng la men ria máu thành một lớp
mỏng. Để khô, cố định bằng cồn Methanol trong 2 phút. Nhuộm Gie msa trong 25 phút (l
giọt Gie msa + 1 ml dung dịch PBS pH = 7,2). Rửa tiêu bản dƣới vòi nƣớc chảy nhẹ, để khô,
soi dƣới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 100 hoặc 10 x 90).
Ƣu điểm của phƣơng pháp giọt mỏng là có thể phân biệt đƣợc hình thái các loài tiên
mao trùng khác nhau.
- Phƣơng pháp làm tan hồng cầu
Dung dịch SDS (Sodium Dodecyl Sulfat) là chất làm tan hồng cầu. Nhờ dung dịch
SDS, tiên mao trùng dễ dàng đƣợc phát hiện trong máu. Dung dịch SDS rất độc nên tránh
tiếp xúc với da và tránh hút bằng pipet. Dung dịch SDS dễ bảo quản ở nhiệt độ thƣờng
trong nhi ều tháng (Van Meirvenne, 1 989).
4.2.2. Phương pháp tập trung tiên mao trùng
Ngƣờ i ta đã sử dụng phình g pháp ly tâm tập trung tiên mao trùng bằng ống
Haematocrit hoặc tách tiên mao trùng bằng tiền DEAE - cellulose.
* Phƣơng pháp ly tâm tập trung bằng ống Haematocrit (WOO, 1971 )
Cho máu động vật nghi mắc bệnh vào ống Haematocrit, một đầu ống đƣợc bịt kín
bằng chất dẻo matit, một đầu ống để hở. Ly tâm với tốc độ 14.000 vòng/phút trong 5 phút.
Sau đó kiểm tra sự tập trung của tiên mao trùng tại vị trí tiếp giáp giữa huyết tƣơng và
hồng cầu (độ phóng đại 10 x l0).
Phƣơng pháp này đơn giản, phát hiện tiên mao trùng tốt hơn phƣơng pháp xem tƣơi
và nhuộm Giemsa. Song, tỷ lệ phát hiện chƣa cao.
Vớ i ống Haematocrit trên, có thể thực hiện phƣơng pháp Darkground: cắt ống ở vị trí
tiên mao trùng tập trung (ranh giới giữa huyết tƣơng và hồng cầu), dùng pipet lấy một ít
huyết tƣơng ở vị trí đó đặt lên phiến kính, đậy la men và kiểm tra dƣới kính hiển vi (độ
phóng đại 10 x 40).
* Ph ƣơng pháp tách tiên mao t rùng bằn g tiền DEA E - ce llu lose (Diethy l -Anomino Ethyl - cellulose).
Các thành phần của huyễn dịch đen DEA E - ce llulose - PSG (PSG: Phosphat
Saline Glucose) mang điện tích dƣơng đã liên kết và giữ lại các thành phần mang điện tích
âm có trong máu là hồng cầu và tiểu cầu. Còn lại, tiên mao trùng đƣợc tách ra cùng với
dung dịch PSG và huyết tƣơng. Bằng phƣơng pháp này, có thể tách đƣợc trên 96% tiên mao
trùng (Lumsden và cs, 1979).
4.2.3. Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm
Đây là phƣơng pháp phổ biến, h iệu quả, chính xác và thƣờng đƣợc Leng dụng
nhiều để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở Việt Na m. Phƣơng pháp này có ƣu điểm là
254 chính xác, do trực tiếp phát hiện thấy tiên
mao trùng sau khi nhân chúng lên trong
động vật thí nghiệm mẫn cảm. Song, nhƣợc
điểm của phƣơng pháp tiêm truyền động vật
thí nghiệm là khi cần chẩn đoán nhanh, với
số lƣợng nhiều và thời gian ngắn thì
phƣơng pháp này không thể đáp ứng đƣợc
(Lê Ngọc Mỹ, 1994; Đoàn Văn Phúc,
1994).
4.2.4. Phương pháp chẩn đo án huyết thanh học
Bằng phƣơng pháp huyết thanh học, có thể phát hiện kháng thể hoặc kháng
nguyên tiên mao trùng. Đây là các phƣơng pháp huyết thanh học đặc hiệu.
4.2.4.1. Các phương pháp phát hiện kháng thể kháng tiên mao trùng
Khi tiên mao trùng ký sinh, cơ thể vật chủ sinh ra kháng thể đặc hiệu chống lại tiên
mao trùng. Những phƣơng pháp sau cho phép phát hiện kháng thể kháng tiên mao trùng
trong máu vật chủ:
* Phƣơng pháp ngƣng kết trên phiến kính (SAT: Slice Agglutination Test) Hoà tan
1 giọt huyết thanh gia súc nghi mắc bệnh vào 1 giọt nƣớc muối sinh lý trên phiến kính, sau
đó cho 1 giọt máu chuột bạch có nhiều tiên mao trùng vào, trộn đều, đậy la men và soi
dƣới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 20 hoặc 10 x 40). Nếu thấy ngƣng kết hình hoa cúc là
(+) và ngƣợc lại là (-).
Phƣơng pháp này đơn giản, dễ làm và có thể áp dụng trên diện rộng. *
Phƣơng pháp LATEX (Latex Agglutination Test)
LATEX là phƣơng pháp ngƣng kết gián tiếp, đƣợc dùng để phát hiện kháng thể lƣu
động có trong máu của gia súc mắc bện h tiên mao trùng.
Nguyên lý của phƣơng pháp LATEX: khi kháng nguyên bề mặt T. evansi gắn lên
các hạt latex kết hợp với kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng ở trên bản nhựa, thì
sẽ xảy ra phản ứng ngƣng kết giữa kháng nguyên với kháng thể. Hiện tƣợng ngƣng kết
có thể quan sát đƣợc bằng mắt thƣờng, và đƣợc giải thích là do kháng nguyên bề mặt
tiên mao trùng đƣợc gắn lên các hạt latex là loại kháng nguyên hữu hình, có nhiều
điểm quyết định tính kháng nguyên bề mặt (epitop surface). Còn kháng thể đặc h iệu
kháng tiên mao trùng lại có nhiều điểm thụ thể (receptor) tƣơng ứng, đặc hiệu với các
điể m quyết định của kháng nguyên. Do đó, khi kháng nguyên tiên mao trùng gặp
kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng, sẽ có hiện tƣợng một phân tử kháng thể đặc
hiệu liên kết với nhiều phân tử kháng nguyên và ngƣợc lại. Kết quả là các hạt latex
cùng với kháng nguyên chụm lại, tạo thành đám ngƣng kết có thể quan sát bằng mắt
255 thƣờng. Kháng nguyên dùng cho phản ứng là kháng nguyên bề mặt đƣợc tinh chế từ
chủng T. evansi không nhuộm màu.
Phƣơng pháp này có thể ứng dụng để chẩn đoán nhanh, số lƣợng nhiều, tỷ lệ phát hiện
cao. Tuy nhiên, nhƣợc điểm của phƣơng pháp này là có thể có phản ứng giả khi pha loãng
huyết thanh ở nồng độ thấp 1/2, 1/4 và dƣơng tính cả khi con vật khỏi bệnh nhƣng vẫn còn
kháng thể tồn tại trong huyết thanh. Mặt khác, phải nhập kháng nguyên của nƣớc ngoài nên
giá thành rất cao.
* Phƣơng pháp CATT (Cam Agglutination Test for Trypanosomiasis)
Đây là phƣơng pháp ngƣng kết trực tiếp giữa kh áng nguyên và kháng thể trên bản
nhựa, đƣợc dùng để phát hiện kháng thể lƣu động trong máu động vật nhiễm bệnh. Nguyên
lý, các bƣớc tiến hành phản ứng hoàn toàn giống phƣơng pháp LATEX. Song có điểm
khác là kháng nguyên dùng cho phƣơng pháp CATT là kháng n guyên chế toàn thân
tiên mao trùng, đƣợc tách ra từ máu động vật bệnh và nhuộm màu bằng comassie blu,
sau đó đông khô (Bajyana Songa, 1988).
Theo Lƣơng Tố Thu và cs (1996), phƣơng pháp CATT dễ sử dụng, có độ nhậy cao
gần gấp đôi phƣơng pháp tiêm truyền chuột bạch (73,75% so với 40%).
* Phƣơng pháp kháng thể huỳnh quang gián tiếp IFAT (Indirect Fluorescent
Antibody Test)
Phản ứng này là phản ứng huyết thanh học đặc hiệu có độ nhạy cao, đƣợc ứng dụng
rộng rãi trong phòng thí nghiệm và thực địa.
Ngoài việc đƣợc dùng làm phản ứng chuẩn để so sánh với các phƣơng pháp
huyết thanh khác, phƣơng pháp IFAT còn đƣợc dùng trong nghiên cứu cấu trúc của
kháng nguyên tiên mao trùng (Luckins, 1988; Davison, 1999).
Trong phƣơng pháp IFAT, huyết thanh dƣơng chuẩn đƣợc lấ y từ trâu bò mắc
bệnh tiên mao trùng, huyết thanh âm chuẩn đƣợc lấy từ trâu bò khoẻ mạnh, huyết
thanh cần chẩn đoán là huyết thanh lấy từ gia súc nghi mắc bệnh.
Ứng dụng phƣơng pháp này ở Việt Nam, Lƣơng Tố Thu và cs (1994) đã chế tạo
conjugate huỳnh qua ng trên thỏ kháng IgG của bò để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng.
Độ pha loãng của conjugate tự chế sử dụng cho phản ứng là 1/8 và huyết thanh chuẩn
pha loãng ớ 1/40. Theo Lƣơng Tố Thu và Lê Ngọc Mỹ (1996), độ nhậy của phƣơng
pháp IFAT là 71,25%, trong khi phƣơng pháp tiêm truyền chuột bạch là 40%.
Để tinh chế kháng nguyên T. evansi dùng trong phản ứng miễn dịch huỳnh quang
gián tiếp để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở trâu bò, Vƣơng Thị Lan Phƣơng (2004)
đã nghiên cứu kháng nguyên bề mặt T. evansi phân lập từ trâu, bò ở 6 tỉnh phía Bắc
Việt Na m và cho biết: đã thu đƣợc 6 mẫu tiên mao trùng từ 6 tỉnh, tiến hành phân
dòng, phân VAT (Variable Antigenic Type) và thu đƣợc 26 VAT thuộc 6 kho kháng
nguyên khác nhau. Bằng phản ứng dung giải miễn dịch và phƣơng pháp thấm miễn
256 dịch, tác giả đã xác định đƣợc sự thay đổi kháng nguyên bề mặt của T. evansi: đa số
các VAT của các kho kháng nguyên khác nhau là khác nhau, chỉ có 8 VAT/26 VAI có
hiệu giá kháng thể đơn giá đặc hiệu, có phản ứng chéo với các VA T của các kho kháng
nguyên khác. Các VAT trội xuất hiện sớm trong 4 tuần lễ đầu nhiễm bệnh, có tính
kháng nguyên mạnh có thê nghiên cứu ứng dụng chế kháng nguyên chẩn đoán. Từ đó,
tác giả đã tinh chế kháng nguyên theo phƣơng pháp tách tiên mao trùng để dùng trong
phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, chẩn đoán bệnh tiên mao trùng cho độ
nhạy và độ đặc hiệu cao. * Phƣơng pháp ELISA (Enzy m Lin ked Immunosorbent
Assay)
* Phƣơng pháp ELISA là một trong những phƣơng pháp hiện đại nhất đƣợc ứng
dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý: dùng kháng thể hoặc kháng thể kháng Globulin (kháng kháng thể) có
mang một enzym (phosphatase hoặc Peroxydase) đƣợc gắn trên mảnh Fc, cho kết hợp trực
tiếp hoặc gián tiếp với kháng nguyên. Sau đó, cho cơ chất sinh màu vào, cơ chất sẽ kết
hợp với enzym và bị enzym phân huỷ tạo nên màu. So sánh với màu của quang phổ kế sẽ
định lƣợng đƣợc mức độ của phản ứng.
Phƣơng pháp ELISA hiện dang đƣợc sử dụng rộng rãi ở các nƣớc trên thế giới. Ở Việt
Nam, Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) đã bƣớc đầu chế kháng nguyên tiên mao trùng và ứng dụng
để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở nƣớc ta.
4.2.4.2. Các phương pháp phát hiện kháng nguyên tiên mao trùng
* Phƣơng pháp ELISA kháng nguyên (Ag - ELISA)
Đây là phƣơng pháp sử dụng phản ứng ELISA kháng nguyên để phát hiện kháng
nguyên lƣu động trong máu của gia súc nhiễm bệnh. Phản ứng dựa trên kháng thể đơn
dòng đặc hiệu với tiên mao trùng. Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) đã bƣớc đầu ứng dụng
phƣơng pháp này để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở Việt Na m. Tuy nhiên, theo cơ
quan năng lƣợng nguyên tử thế giới (IA EA) (1997), phƣơng pháp ELISA kháng
nguyên có độ nhậy kém hơn so với các phƣơng pháp phát hiện tiên mao trùng cổ điển.
Vì vậy, phƣơng pháp này đã không đƣợc phổ biến trong thời gian hiện tại và tƣơng lai
(IAEA đã không sản xuất đĩa Ag - ELISA cho nhiều nƣớc trên thế giới).
* Phản ứng Suratex
Phản ứng Suratex là phản ứng ngƣng kết giữa các hạt latex đƣợc gắn kháng thể
đơn dòng với kháng nguyên lƣu động t rong máu động vật nhiễ m t iên mao trùng
(Nantulya, 1994). Phản ứng này hiện đang đƣợc thử nghiệm và đánh giá ở thực địa.
4.2.5. Phương pháp phát hiện ADN của tiên mao trùng bằng phản ứng PCR
(Polymerase Châm Reaction)
PCR là phƣơng pháp hiện đại nhất, mớ i đƣợc đƣa vào ứng dụng để chẩn đoán bện h
tiên mao trùng trong những năm gần đầy.
257 Nguyên lý: dựa vào phản ứng chuỗi Polymerase để xác định sự có mặt đen ADN của
tiên mao trùng trong máu động vật nhiễm bệnh.
Mullis và cs (1986) đã thiết lập qui trình phản ứng để ứng dụng chẩn đoán bệnh tiên
mao trùng. Sau đó, Desquesnes (1996, 2002), Masake (1997) đã ứng dụng phản ứng PCR
để chẩn đoán bệnh T. evansi ở bò; Almeida (1998) đã ứng dụng chẩn đoán bệnh tiên mao
trùng ở dê.
Phƣơng pháp PCR có độ nhậy và độ chính xác rất cao. Tuy nhiên, phƣơng pháp này
đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật cao, trang thiết bị hiện đại nên hiện nay mới đang đƣợc thử
nghiệm tại một số phòng thí nghiệm hiện đại.
5. PHÒNG TRỊ B ỆNH TIÊN MAO TRÙNG CHO TRÂU, BÒ, NGỰA
5.1. Phòng bệnh
Để phòng ngừa bệnh tiên mao trùng có hiệu quả cao, các nhà khoa học đã đề nghị
áp dụng 3 biện pháp sau:
5.1.1. Diệt tiên mao trùng trên cơ thể ký chủ
Diệt tiên mao trùng ký sinh ở vật chủ không những ngăn chặn đƣợc tác hại gây
bệnh của chúng mà còn làm cho bệnh mất khả năng lây lan. Các b iện pháp cụ thể là:
- Phát hiện gia súc nhiễm tiên mao trùng ở vùng có bệnh và những vùng lân cận,
nhốt riêng trong chuồng có lƣới để ngăn côn trùng và điều trị triệt để cho gia súc bệnh.
- Ở những vùng không có bệnh thì không nhập gia súc từ vùng có bệnh về. Nếu thật
cần thiết thì chỉ nhập những gia súc khoẻ (có kết quả kiể m tra âm tính với tiên mao
trùng), song vẫn cần nhốt riêng để theo dõi. Nếu không bị bệnh mớ i cho nhập đàn. Phát
hiện và diệt những loài thú hoang nghi là nguồn tàng trữ mầ m bệnh, hoặ c không chăn thả
gia súc trong những khu vực có những loài đó sinh sống.
5.1.2. Diệt côn trùng môi giới truyền bệnh
Hội nghị lần thứ Vi của Uỷ ban khoa học Quốc tế nghiên cứu về tiên mao trùng đã
đề ra những biện pháp tiêu diệt côn trùng nhƣ sau:
- Diệt côn trùng bằng thay đổi sinh thái.
Thay đổi sinh thái là thay đổi điều kiện sống, làm cho côn trùng không sinh sản,
không thực hiện đƣợc chu kỳ phát triển.
Phát quang cây cối ở từng khu vực, không để nƣớc tù đọng, ủ phân để diệt trứng và
ấu trùng ruồi, mồng, làm chuồng gia súc có lƣới ngăn côn trùng.... là các biện pháp hữu
hiệu, tạo ra những điều kiện bất lợi cho đời sống của côn trùng.
Tuy nhiên, do côn trùng có khả năng di chuyển khá mạnh nên các biện pháp trên phải
thực hiện đồng thời trên phạm vi rộng mới có hiệu quả.
Challier A. (1974) cho biết, ở Nigieria, việc phát quang cây cối xung quanh hồ và
258 các con sông trong một khu vực rộng 400 - 800 mét, dài 10.000 mét chỉ hạn chế đƣợc một
phần hoạt động của những côn trùng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng ở đó. Diệt côn
trùng bằng hoá dƣợc
Có thể dùng các hoá dƣợc tiêu diệt côn trùng môi giới của tiên mao trùng. Các hoá
dƣợc đã đƣợc dùng là: Endosulfan, Brophos, Dieldrine, Tetracloreinphos...
- Diệt côn trùng bằng phƣơng pháp sinh học
Các nhà khoa học đã phát hiện đƣợc 25 loài ong và côn trùng ký sinh gây hại cho các
loài ruồi, mòng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng.
Một số loài vi khuẩn có thể xâ m nhập vào cơ thể ruồi hút máu làm chúng mắc bệnh
và chết.
Lang (1974) đã phân lập đƣợc m ột số loài vi khuẩn nhƣ: Bacillus thuringiensis,
B.mathisi để tiêu diệt các loài ruồi hút máu. Đây là biện pháp diệt côn trùng có nhiều ƣu
điểm: không ảnh hƣởng đến môi trƣờng. Tuy nhiên, biện pháp này mới đang ở giai đoạn
thử nghiệm.
Jordan A. N. và cs (1974) đã gây đột biến ruồi hút máu bằng một số hoá chất và
tia sáng có bƣớc sóng ngắn, bằng phƣơng pháp di truyền quần thể, đã tạo ra những
ruồi đực vô tính rồi thả với ruồi cái trong tự nhiên. Kết quả là làm cho ruồi không sinh
sản đƣợc. Phƣơng pháp này có nhiều khả năng thành công nhƣng rất tốn kém.
Nhìn chung, các biện pháp tiêu diệt côn trùng môi giớ i có hiệu quả nhất định
nhƣng cũng còn nhiều hạn chế.
5.1.3. Phòng bệnh cho gia súc bằng hoá dược
Hội nghị chuyên đề quốc tế về phòng bệnh tiên mao t rùng (1978) đã kết luận:
Hiện nay, biện pháp sử dụng hoá dƣợc để tiêm phòng rộng rãi cho gia súc ở những
vùng bệnh tiên mao trùng lƣu hành cần phải đƣợc tiếp tục trong nhiều năm (Touratier,
L. và cs, 1979).
Từ năm 1934, tổ chức dịch tễ gia súc đã đề ng hị sử dụng Novarsenobenzol để
tiêm phòng cho toàn đàn ngựa ở những vùng có bệnh tiên mao trùng. Hiện nay, thuốc
Trypamidium, liều 0,5 mg/kTT đƣợc khuyên dùng để phòng bệnh tiên mao trùng cho
trâu , bò .
Liu, J. H. và cs (1992) đã nghiên cứu chế tạo vắc xin phòng bệnh tiên mao trùng
cho ngựa. Kết quả tiêm thử nghiệm vắcxin liều 3 x 105 T. evansilngựa, sau 30 - 60 -90 ngày dùng vắcxin, tỷ lệ bảo hộ đạt 100%; trong khi lô đối chứng chết trong thời
gian 3 tháng.
5.2. Điều trị bệnh
Một số loại hoá dƣợc đã đƣợc dùng để điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò,
ngựa ở nƣớc ta từ những năm 60 đến nay gồm:
259 - Naganin, liều 10 mg/kgTT. Pha thuốc với dung dịch nƣớc muối sinh lý hoặc nƣớc
cất thành dung dịch 10%, tiê m tĩnh mạch.
Phan Địch Lân và cs (1962), Phạm Sỹ Lăng và cs (1965) đã thử nghiệm Naganin và
cho biết, thuốc có tác dụng tốt trong điều trị bệnh do T. evansi trên trâu, bò ở nƣớc ta. -Novarsenobenzol, liều 10 mg/kgTT.
Phan Địch Lân và cs (1963), Phạ m Sỹ Lăng và cs (1965) đã sử dụng
Novarsenobenzol 2 lần cách nhau 2 ngày, thấy hiệu lực thuốc đạt 80% , tỷ lệ an toàn 80
- 82% .
- Trypamidium, liều 1 mg/kgTT, tiêm sâu vào bắp thịt thành 2 - 3 điểm.
Đoàn Văn Phúc và cs (1981 ) đã thử nghiệm Trypamidium điều trị bệnh tiên mao
trùng cho trâu, bò và cho biết, tỷ lệ an toàn và khỏi bệnh đều đạt 100%.
Berenyl, liều 3 mg/ kgTT. Pha thuốc với nƣớc cất theo tỷ lệ cứ 0,8 ga m thuốc
trong 5 mi nƣớc cất. Tiê m sâu bắp thịt (không dùng quá 9 gam cho một gia súc).
Hồ Thị Thuận (1980) đã dùng Berenyl trị bệnh tiên mao trùng cho trâu bò, thấy kết
quả điều trị tết.
Phan Văn Chinh (2006) dùng Berenyl điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò ở
các tỉnh miền Trung và cho biết, thuốc đạt hiệu lực 100% với những trâu, bò bị bệnh.
- Trypamidium samorin, liều 1 mg/ kgTT. Tiêm sâu bắp thịt.
Nguyễn Quốc Doanh và cs .( 1 996) đã dùng Trypamidium samorin điều trị bệnh tiên
mao trùng cho trâu, bò và xác định , thuốc có hiệu lực và độ an toàn rất cao (100%).
Theo Phan Văn Chinh (2006), sử dụng thuốc Trypamidium (liều 1 mg/ kgTT) cho tỷ lệ diệt
hết tiên mao trùng là 100%.
- Trypazen, liều 3,5 mg/kgTT
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét