Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014
BỆNH SÁN LÁ RUỘT LỢN (Fasciolopsiasis)
140 BỆNH SÁN LÁ RUỘT LỢN
(Fasciolopsiasis)
Bệnh sán lá ruột lợn do loài sán lá Fasciolopsis busk i gây ra. Bệnh phổ biến ở hầu
hết các nước ở khu vực châu Á và Đông Nam châu á.
Sán lá F. buski được bác sỹ Busk phát hiện năm 1783 ở tá tràng của người. Từ đó đến
nay, có nhiều nhà khoa học tập trung nghiên c ứu: Lankester (1957), Cobbol (1859),
Looss (1899), Nakagawa (1921), Barlow (1925), Hứa Bằng Như (1964), Trần Tâm Đào
(1965), Muttalib (1975), Idris (1980), Li (1981), Gra zick (2000)...
Tác hại của sán là làm lợn sinh trưởng chậm, thậm chí sụt cân. Ngoài lợn, người và
một số động vật khác cũng nhiễm và bị bệnh.
1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA SÁN LÁ FASCIOLOPSIS BUSKI
1.1. Vị trí của F. buski trong hệ thống phân loại
Theo Skrjabin và cs (1977), Phan Thế Việt và cs (1977), Nguyễn Thị Lê và cs
(1996), sán lá ruột Fasciolopsis bllsk i được xếp trong hệ thống phân loại động vật học
như sau:
Ngành Plathelminthes Schneider, 1873
Phân ngành Platodes Leuckart, 1854
Lớp Trematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Prosostomadidea Skrjabin và Guschanskaja, 1962
Bộ Fasciolida Skrjabin et Schulz, 1937
Phân bộ Fasciolata Skrjabin et Schulz, 1937
Họ Fasciolidae Railliet, 1895
Phân họ Fasciolopsinae Odhner, 1910
Giống Fasciolopsis Looss, 1899
Loài Fasciolopsis buski (Lankaster, 1857)
1.2. Đặc điểm hình thái và chu kỳ sinh học
1. 2.1. Đặc điểm hình thái
F. buski có mầu đỏ hồng, phía trước cơ thể thon nhỏ, phình rộng ở phía sau, trên thân
phủ những gai nhỏ. Cơ thể dài 20 - 70 mm, rộng 14 - 15 mm, dầy 0,3 - 3 mm. Có 2 giác
bám: giác miệng nằm ở phía trước cơ thể, có đường kính 0,5 1 mm; giác bụng lớn hơn
giác miệng, nằm ở phía sau, đường kính 1,5 - 2 mm. Ruột phân hai nhánh chạy dọc hai
bên thân, kéo dài tới cuối cơ thể.
141 Cũng như hầu hết các sán lá khác, F. busk i lưỡn g tính và có hệ s inh dục phát
triển.
Cơ quan sinh dục đực gồm hai tinh hoàn phân nhánh, xếp trên dưới ở phần sau thân
sán. Cơ quan sinh dục cái có buồng trứng phân nhánh nằm trước tinh hoàn, tử cung phân
nhánh, tuyến noãn hoàng phân nhánh nằm dọc hai bên c ơ thể. F. buski thụ tinh chéo hoặc
tự thụ tinh (hình 59, 60, 61, 62).
Những nghiên cứu thực nghiệm ở Trung Quốc cho
thấy, F.busk i phát triển tốt nhất ở lợn. Các động vật
khác như trâ u, thỏ , chó .... tuy b ị nh iễ m nh ưng sán
không thể phát triể n đến trưởng thành. Trong cơ thể
mèo, sán không sinh trưởng được. F. busk i ký sinh ở
lợn và người Việt Na m có kích thước lớn hơn sán ký
sinh ở lợn và người Trung Quốc (Đỗ Dương Thái và cs,
1978). Mathis và Leger (1911) cho biết, F. buski dài 30
- 70 mm, rộng 14 - 15 mm. Song, theo Phan Trọng
Cung (1991), ch iều dài sán F. busk i ở lợn Việt Na m
không quá 40 lắm.
F. buski trưởng thành thường ký sinh ở đoạn tá tràng và không tràng của lợn và
người, nhưng ký sinh nhiều nhất ở tá tràng. Trịnh Văn Thịnh (1969), Đỗ Dương Thái
(1973) cho biết, đôi khi thấy sán ở dạ dày và ruột già.
1. 2.2. Chu kỳ sinh học
Chu kỳ sinh học (vòng phát triển) của F. buski
tương tự các sán lá khác thuộc họ Fasciolidae.
Sán trưởng thành sống ký sinh ở ruột non, đẻ
trứng. Trứng th eo phân ra môi trường bên
142 ngoài. Sau một thời gian ấu trùng Miracidium hình thành trong trứng. Ấu trùng thoát khỏi
trứng bơi trong nước, tìm và xâ m nhập vào ốc - KCTG thích hợp. Trong ốc, ấu trùng
phát triển thành Sporocyst, rồi thành Redia mẹ, thành Redia con. Redia con chứa nhiều
Cercaria. Cuối cùng, Cercana thoát khỏi ốc, bơi trong nước, bám vào các cây thuỷ sinh
và tạo thành Adolescana.
Chu kỳ sinh học (vòng phát triển) của F. buski được mô phỏng theo sơ đồ sau:
- Trứng F. buski:
Trứng hình bầu dục, màu vàng chanh, có một nắp, dài 130 - 140 μm, rộng 80 -85 μm (Gilman và cs, 1982). Trứng phải rơi vào nước mới t iếp tục phát triển được.
Trong trứng hình thành một phôi thai có tiêm mao gọi là Miracidium. Miracidiltm
thoát khỏi trứng sau một thời gian tuỳ điều kiện khí hậu bên ngoài. Nhiệt độ thích hợp
để trứng F. busk i phát triển là 28
0
C (Nakagawa, 1921). Trong dung dịch NaCl 5‰ ,
nhiệt độ 28 - 30
0
C, trứng F. buski phát triển thành Miracidium cần 14 ngày, nhiệt độ
để trứng phát triển tốt nhất là 25 - 290C (Nguyễn Trọng Nội, 1966; Phạm Văn Khuê,
1971). Trong nước cất, trứng phát triển thuận lợi ở 350c, tỷ lệ trứng nở đạt 82,2%; thời
gian phát triển tới Miracidium mất 12 - 13 ngày. Ở 30
0
C có 79,9% trứng nở, thời gian
phát triển thành Miracidium mất 15 ngày. Ở 40
0
C trứng không phát triển được. Ở 28 -30
0
C, trứng phát triển thành Miracidium cần 15 ngày (Phan Trọng Cung và cs, 1991).
Ở môi trường có pa là 6 - 7, trứng phát triển rất thuận lợi; ở môi trường có pH là 4 - 5
và 8 - 10, trứng không hình thành Miracidium (Phan Lục, 1976).
143 - Miracidium
Sau khi hình thành trong trứng 3 ngày, Miracidium bắt đầu chuyển động, sau 10
ngày một số Miracidium thoát ra khỏi trứng, phần lớn thoát ra sau 12 ngày
(Nakagawa , 1921). Miracidium hình quả lê, bên ngoài phủ một lớp màng mỏng có
nhiều lông tơ, bên trong có hệ tiêu hoá sơ sinh, mô thần kinh, hai tế bào ngọn lửa và rất
nhiều tế bào phôi. Mùa hè, Miracidium sống được 6 - 8 giờ; mùa đông sống được 3 ngày.
Thời gian hoạt động mạnh nhất trong nước là sau khi nở 1 - 2 ngày. Đây cũng là thời gian
khả năng xâm nhập của Miracidium vào vật chủ trung gian là nhiều nhất, sau đó yếu dần.
Theo Gilman và cs (1982), Miracidium xâ m nhập vào ốc qua lớp áo cơ, râu và ch ân của
ốc. Trong đ iều kiện khí hậu Việt Na m, sau kh i thoát khỏ i t rứng, Miracidium hoạt
động trong nước 6 - 52 giờ. Sau đó, Miracidium phải xâm nhập vật chủ trung gian mới
tiếp tục phát triển được.
- Sporocyst
Sau kh i xâ m nhập vào vật chủ t ru ng gian 2 ngày , Mi racidium h ình thành
Sporocyst.
Sporocyst có hình dạng rất thay đổi, gồm những
144 đám tế bào to, nhỏ, không có ống tiêu hoá. Sau một thời
gian, các tế bào hình thành ống tiêu hoá đơn giản, không
chia nhánh, có 1 giác, gọi là Redia mẹ.
Redia mẹ và Redia con
Redia mẹ có hình bán nguyệt, xâ m nhập vào gan, tuỵ
của ốc ký chủ trung gian
và biến thành Redia con, bên trong chứa nhiều Cercaria. Redia con có hình bán nguyệt
uốn khúc, bên trong có chứa các Cercaria đã thành thục.
- Cercaria
Cercaria được hình thành trong gan ốc sau 28 -36 ngày (Graczick, J. K và cs, 1982). Cercaria
giống con nòng nọc (ấu trùng lưỡng thê), cơ thể chia
2 phần là thân và đuôi, thân có ruột chẻ đôi, có 2
giác bám. Theo Thái Trần Bái và cs (1975), ở điều
kiện khí hậu miền Bắc Việt Nam, trong ốc Planorbts
hemisphaeruta,
Cercaria dài 231 - 382 μm, rộng 231 - 297 μm,
đuôi dài 660 μm, rộng 73 μm. Cercaria ở gan ốc vài
ngày rồi thoát khỏi ốc, chuyển động rất mạnh, sau
thời gian ngắn rụng đuôi, tiết chất nhờn bao quanh và
biến thành Adolescalria.
- Adolescaria
Adolescaria có hình tròn, dẹp, có giác miệng và
giác bụng, hầu, thực quản, ruột, ống bài tiết. Thờ i
gian hình thành Adolescaria là 3 giờ. Adolescaria
bám vào cây cỏ thuỷ sinh: các loại bèo, rau muống,
rong… . Ở Việt Nam, Adolescaria được tìm thấy ở rau
muống, bèo Nhật Bản, bèo cái, bèo tấm.
145 Thời gian hoàn thành vòng đời của F. busk i ở lợn là 90 ~ 6 ngày (Phạ m Văn
Khuê, 1964, 1967; Nguyễn Thị Lê, 1977).
Theo Barlow (1925), Trần Tâm Đào (1966), Gilman (1982), beng (1989), thời gian
hoàn thành vòng đời của F. buski ở lợn là 3 tháng, ở người là 31 ngày.
1. 3. Vật chủ trung gian của F. buski
Vật chủ trung gian của F. buski là các loài ốc nước ngọt.
Ốc nước ngọt thuộc lớp chân - bụng, gồm hai phân lớp: Probranchia (ốc mang
trước) và Pulmonata (ốc có phổi).
Cơ thể ốc tập trung thành khối, được bao bọc bởi lớp vỏ đá vôi, kích thước lớn nhỏ
khác nhau tuỳ theo từng loài. Những ốc sống ở nước hô hấp bằng mang, ở cạn hô hấp bằng
phổi. Một phần cơ thể ốc phân hoá thành chân (là cơ quan vận động).
Trong nước, ốc sống ở những độ sâu khác nhau, thời gian hoạt động của chúng
cũng khác nhau. Ban đêm, do các loại thực vật sống trong nước hấp thụ oxy, thải khí
cacbonic nên phần lớn các loài ố c tai, ốc đĩa phả i nổi lên mặt nước để hô hấp. ốc
thường bám vào các vật nổi:trên mặt nước như lá.bèo, cây cỏ cho đến 9~lo giờ sáng
hôm sau mới chìm xuống các. tầng nước sâu hơn. Một số loài ốc tai, ốc đĩa thường
bám vào các cây bèo Nhật Bản, rau muống, rau lấp, rong ở các ao, hồ, sông, suối.
Chúng có thể ở nơi ẩm ướt (không ngập nước) trong một thời gian dài (Đặng Ngọc
Thanh và cs, 1980). Thức ăn của ốc nước ngọt là rong rêu, bèo, các chất mùn.
Theo Phan Trọng Cung và cs (1991), ốc nước ngọt sinh sản hữu tính, phần lớn là đơn
tính, một số loài lưỡng tính nhưng không tự thụ tinh.
Đỗ Dương Thái và cs (1978) đã tổng hợp kết quả phát hiện của Barlow (1925),
Trần Tâm Đào (1956), Hứa Bằng Như (1964) về ốc ký chủ trung gian của sán lá ruột
lợn ở Trung Quố c gồm các loài: S. nitidella, G. chinensis, H. cantori, H. umbilicalis,
P.hemisphaerula...
Theo Phan Lục (1976), Nguyễn Thị Lê (1986), ở Việt Nam, ốc P. hemisphaerula,
G.sinensis và G. heudei là ký chủ trung gian của sán lá ruột lợn. Tỷ lệ nhiễm Cercaria
của ốc P. hemisphaerula ở khu vực trồng rau xanh nuôi lợn có liên quan tới tình hình
sử dụng phân bón có ủ hay không ủ và mức độ bón phân ở khu vực đó. Ốc ký chủ
trung gian có kích thước càng lớn thì tỷ lệ nhiễm Cercaria càng cao. Trong tự nhiên
thường thấy ốc P. hemisphaerula ở các ao có bèo Nhật Bản, chúng thường tập trung ở
kẽ lá bèo, nhất là các lá bèo đang thối rữa. Ở ruộng muống có mức nước nông, pa 6 -7, ốc thường tập trung ở cọng, lá rau đang thối rữa. Ở các ruộng muống đang trong
thời kỳ khô hạn, đất đã nứt nẻ, ốc thường tập trung ở gốc muống, tỷ lệ ốc sống là
90,3%. Trong ruộng rau lấp mật độ ốc thấp hơn. Ở ruộng lúa, ruộng mới cầy, ốc tập
trung ở gốc lúa hay treo mình trên mặt nước (Thái Trần Bái, 1977).
Gilman và cs (1982) đã nghiên c ứu về ốc - ký chủ trung gian của F. busk i ở
146 Bangladesh cho biết, ốc H. umbilicalis, S. trochoidues là ký chủ trung gian của sán này,
tỷ lệ ốc nhiễm Cercaria là 1%.
Ono (1958) đã dùng nitrat canxi (Ca(NO3
)
2
) nồng độ 0,05 - 0,08%, sunfat đồng
(Cu SO
4
) nồng độ 0,5; 1 và 2% để diệt ốc.
Theo tổ chức vệ sinh quốc tế (OMS) (l960) thì các hoá chất tốt nhất dùng để diệt ốc
phải là những chất có hoạt lực chống các ký chủ trung gian và ngăn cản sự sinh sản của
chúng, liều dùng phải thấp hơn 1/1.000.000, kh ông độc cho người và gia súc, không
độc hoặc ít độc cho sinh vật sống ở trong nước.
2. DỊCH TỄ HỌC CỦA B ỆNH F. BUSKI
2.1. Phân bố
F. buski được phát hiện ở lợn và người tại các nước khu vực châu Á và Đông
Nam châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan,
Indonexia, Malaixia, Philippine (Dorothy, 1968; Soubsby, 1965, 1976; Manning và cs,
1971; Phan Thế Việt và cs, 1977; Đỗ Dương Thái và cs, 1978; Idris và cs, 1980; Bunnag,
1983; Waikagul, 1991).
F. busk i gây bệnh cho cả ng ười và động vật ở Trung Quốc, Hồng Kông và Đài
Loan (Lee, 1989; Li, 1991).
Ở Việt Nam, F. buski phân bố rất rộng ở hầu hết các tỉnh, thành thuộc vùng núi,
trung du và đồng bằng trong cả nước. Bệnh phổ biến ở lợn vùng đồng bằng Bắc Bộ và
Thanh - Nghệ - Tĩnh. Ở người, tỷ lệ nhiễm F. busk i rất thấp (Phạm Sỹ Lăng và cs,
1997).
Sự phân bố của sán lá ruột lợn thường theo quy luật vùng. Bệnh thường xuất hiện
ở các nước khí hậu nhiệt đới, những vùng có nhiều ao, hồ, có nhiều cây thuỷ sinh dùng
làm thức ăn số ng cho người và lợn. Vùng đồng bằng ven biển lợn nhiễm F. buski thấp.
2.2. Mùa, tuổi nhiễm và ký chủ cuối cùng
Lợn và người nhiễ m F. busk i không biểu hiện biến động theo mùa rõ rệt (Đỗ
Dương Thái và cs 1978), có thể nhiễm ở cả 4 mùa, nhưng tỷ lệ nhiễm giảm vào tháng 5, 6,
sau đó tăng dần và tăng cao nhất ở tháng 9, 10, sau đó lại giảm dần (Phạm Văn Khuê,
1982, Theo Trịnh Văn Thịnh (1967), Phan Địch Lân và cs (1974), ở nước ta, F. buski ký
sinh nhiều nhất ở lợn sinh sản và lợn thịt; ở lợn đang bú sữa mẹ, l ợn mới cai sữa và lợn
choai ít nhiễm hơn.
Tỷ lệ nhiễm F. buski tăng dần theo tuổi. Lợn dưới 2 tháng tuổi nhiễm 16,6%; 3 -4 tháng nhiễm 45,8%; 5 - 7 tháng nhiễm 58,3%; lợn trên 8 tháng nhiễm 70,8%.
Không có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm F. buski giữa các g iống lợn địa phương và
lợn nhập từ nước ngoài (Phạm Văn Khuê, 1971; Phan Địch Lân, 1974; Lương Tố Thu,
2.3. Nguồn bệnh, sức đề kháng của trứng và Adolescaria
147 Nguồn phát tán mầm bệnh chủ yếu là lợn và người có sán ký sinh.
Hàng ngày, mỗi sán trưởng thành thải theo phân ra môi trường bên ngoài 15.000
- 18.000 trứng. Một trứng sán khi gặp điều kiện thuận lợi của môi trường bên ngoài sẽ phát
triển thành nhiều mầ m bệnh có khả năng gây nhiễm (Phạ m Văn Khuê và cs, 1996).
Phân lợn và phân người nhiễm sán là nguồn phát tán mầm bệnh ra môi trường bên ngoài.
Vì vậy quản lý và xử lý phân lợn và người là biện pháp chủ động ngăn chặn nguồn bệnh
phát tán ra ngoại cảnh.
Trứng của F. busk i bị diệt nhanh trong hố ủ phân vào mùa hè và chậm hơn vào mùa
đông. Phâ n lợn ủ theo phương pháp nhiệt sinh học, khi nhiệt độ đạt đến 50 - 54
0
C trứng F.
busk i bị tiêu diệt . Trong nước muối Na Cl 5% trứng vẫn phát triển đ ược (Nguyễn
Quốc Si, 1962), trứng bị tiêu diệt khi đi qua hệ thống ủ men sinh khí gas (Shinobu
Yoshihara và cs, 1998; Nguyễn Văn Thọ, 2003).
Adolescaria bị tiêu diệt khi ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp 20 - 30 phút, trong
nước nóng 60
0
C sau 15 phút, trong nước sôi sau 60 giây. Nhiệt độ 3 - 5
0
C. Adolescaria
sống được 13 ngày. Trong môi trường a xit clohydric (HC l) 0,5%, Adolescaria sống được
18 ngày; trong axit a xetic 2% sống được 9 ngày; trong axit axetic 3% sống được 6 ngày;
trong nước muối NaCl 5% sống được 3 giờ; trong nước muối NaCl 20% bị diệt sau 30
ngày (Nakagawa, 1921 ).
2.4. Tập quán chăn nuôi và đƣờng truyền bệnh
Lợn nhiễm F. busk i nặng hay nhẹ phụ thuộc vào tập quán cho ăn thức ăn sống hay
chín, thức ăn xanh cho lợn trồng cạn hay dưới nước. Lợn ăn thức ăn sống tỷ lệ nhiễm F.
buski cao gấp 3 - 7 lần so với lợn ăn thức ăn nấu chín. Tỷ lệ nhiễm F. buski còn phụ thuộc
vào điều kiện vệ sinh thú y, nơi nào không bón phân lợn tươi thì tỷ lệ nhiễm thấp. Lợn ở
vùng núi, vùng trồng mầu thường cho ăn rau ở trên cạn nên tỷ lệ nhiễm thấp hơn ở vùng
đồng bằng. Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) thì
cần ủ phân đúng kỹ thuật và không cho lợn ăn sống các loại rau bèo lấy từ nước lên để hạn
chế tình trạng lợn nhiễm F. buski.
Lợn nhiễm F. buski do ăn sống các loại thực vật nước như rau muống, rau lấp,
rong, bèo.... Người nhiễm sán lá ruột, ngoài việc ăn sống rau muống, còn do ăn sống củ
niễng, ngó sen và củ ấu có mang Adolescaria (Shinobu Yoshihara và cs, 1998;
Nguyễn Văn Thọ, 2002).
3. BỆNH LÝ, LÂM SÀNG CỦA B ỆNH Ở LỢN VÀ NGƢỜI
3.1. Ở lợn
Sán F. buski bám vào niêm mạc ruột non, gây tổn th ương, viêm cataz; đồng thời sán
lấy dưỡng chấp ở ruột non, tiết độc tố gây trúng độc mãn tính cho lợn.
Lợn nhiễm F. buski thường gây yếu, lông xù, ăn uống thất thường, chậm lớn, sụt
cân, da sần sùi, niêm mạc mắt nhợt nhạt, thỉnh thoảng ỉa chảy. Lợn nhiễm sán với
148 cường độ cao có thể tắc và loét ruột.
Theo Hứa Bằng Như (1964), lợn nhiễ m F. busk i sinh trưởng chậm, nuôi 5 - 6
tháng khối lượng chỉ đến 13 - 15 kg/con. Trịnh Văn Thịnh (1967), (1985); Phan Trọng
Cung (1991) nhận xét, F. busk i gây tác h ại lớn cho lợn, trong 35 ngày bị bệnh, trung bình
1 sán F. bllski làm lợn giảm 65 ga m khối lượng.
Lợn nái nuôi con bị bệnh sán lá ruột thì thiếu sữa, tỷ lệ lợn con mắc bệnh phân
trắng cao. Lợn con sau cai sữa thường bị ỉa chảy, còi cọc, chậm lớn.
Mổ lợn bệnh thấy thành ruột non dầy lên, có nhiều điểm hoại tử trên niêm mạc
ruột.
3.2. Ở ngƣời
Người nhiễm sán thường có tổn thương cơ thể bệnh học rõ rệt. Niêm mạc ruột
non bị phù và viêm, xung huyết hoặc xuất huyết. Trường hợp nhiễm nhiều sán ruột bị
tắc, nếu có bội nhiễm vi khuẩn thì các hạch màng treo ruột viêm, sưng. Độc tố của sán
gây tổn thương và rối loạn chung. Toàn thân bị phù, tràn dịch ở ngoại tâm mạc. Bệnh
nhân thiếu máu, số lượng bạch cầu giảm, huyết sắc tố giảm, bạch cầưtoan tính tăng.
Sán chiếm đoạt dinh dưỡng, bệnh nhân có thể chết trong tình trạng suy kiệt (Trịnh Văn
Thịnh và cs, 1978).
Bệnh sán lá ruột do F. buski ở người diễn ra qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn khởi phát: người bệnh có triệu chứng nhẹ, biểu hiện mệt mỏi, sức
khoẻ giả m sú t, thiếu máu nhẹ.
- Giai đoạn toàn phát: người bệnh đau bụng kèm theo ỉa chảy, phân lỏng, nhảy và lẫn
thức ăn chưa tiêu hoá. Hiện tượng ỉa chảy kéo dài nhiều ngày. Vùng hạ vị đau, bụng
chướng, sức khoẻ giảm sút nhanh chóng.
- Giai đoạn kết thúc: người bệnh phù nề toàn thân, tràn dịch ở nhiều nội tạng,
người bệnh có thể chết trong tình trạng suy kiệt (Đỗ Dương Thái và cs, 1973).
4. CHẨN ĐOÁN B ỆNH SÁN LÁ RUỘT LỢN
Việc chẩn đoán bệnh sán lá ruột lợn không khó khăn, bởi có thể sử dụng phương
pháp gạn rửa s a lắng (phương pháp lắng cặn Benedek, 1943) để phân ly trứng ra khỏi
phân. Trứng sán lá ruột lợn to và dễ phát hiện dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x l0).
Để chẩn đoán chính xác, cần phối hợp xét nghiệm phân tìm trứng sán với việc điều tra
tình hình dịch tễ học. Một trong những đặc điểm dịch tễ đáng chú ý nhất của bệnh do
F. buski gây ra là lợn ở khu vực ấy có ăn sống các loại rau, bèo lấy từ dưới nước lên
không?. Với lợn chết, việc mổ khám tìm sán lá ký sinh ở ruột non là biện pháp chẩn
đoán chính x ác hơn cả.
5. PHÒNG TRỊ B ỆNH SÁN LÁ RUỘT LỢN
5.1. Biện pháp phòng bệnh
149 Phòng bệnh F. busk i bằng các biện pháp: chẩn đoán phát hiện vùng có người và lợn
nhiễm sán để dùng thuốc tẩy trừ (tẩy sán F. buski cho lợn bằng thuốc Praziquantel, liều 15
ml/kgTT); vệ sinh chuồng nuôi lớn, thức ăn nước uống cho lợn; không cho lợn ăn sống rau
muống nước, rau lấp, bèo Nhật Bản (người cần bỏ tập quán ăn sống rau muống nước, củ
ấu, ngó sen, củ niễng); tập trung phân lợn, phân người ủ theo phương pháp nhiệt sinh học
để diệt trứng F. buski.
Nguyễn Văn Thọ (2005) đã đề xuất biện pháp phòng bệnh sán lá ruột cho lợn như
sau:
- Dùng thuốc Praziquantel tẩy sán lá ruột: lợn nuôi thịt (3 - 6 tháng tuổi) nên tẩy 1
lần vào thời gian 2 - 2,5 tháng tuổi. Lợn sinh sản mỗi n ăm tẩy 2 lần, khoảng cách giữa 2
lần tẩy là 4,5 tháng. Lợn trong thời kỳ mang thai không nên tẩy vì chưa có kết quả thực
nghiệm về ảnh hưởng của thuốc ở lợn mang thai.
Để giữ cho môi trường không bị ô nhiễm trứng sán, trong quá trình dùng thuốc tẩy
cần th iết nhốt lợn tại một địa điểm, thu gom phân, rác và xác sán, tập trung ủ theo phương
pháp nhiệt sinh học, tẩy uế chuồng trại.
- Chống ô nhiễm trứng sán ở môi trường ngoại cảnh. +
Quản lý và xử lý phân lợn
Phân lợn nhiễm sán có chứa nhiều trứng, là nguồn bệnh duy nhất. Vì vậy, phải tập
trung phân lợn ủ theo phương pháp nhiệt sinh học để diệt trứng.
Công thức ủ phân:
Phân chuồng: 2.000 kg
Lá xanh, cỏ, rơm rác: 200 - 300 kg
Vôi bột, tro bếp: 50 - 80 kg
Cácln ủ: ươn đều các nguyên trên hoặc cứ một lớp ph ân lợn phủ một lớp lá xanh, tro
bếp...) đánh thành đống hình khối chóp, phía ngoài cùng trát một lớp bùn. Sau 12 ngày,
nhiệt độ đống phân tăng cao đến 50 - 54
0
C. Ở nhiệt độ này, trứng F. buski và các trứng giun
sán khác đều bị tiêu diệt.
+ Quản lý phân lợn và diệt trứng F. buski trong bể Biogas
Trứng F. buski bị diệt khi được giữ trong bể Biogas 30 ngày, nếu bổ sung chế
phẩm EM nồng độ 1% vào bể Biogas thì thời gian trứng bị diệt là 20 ngày. Vì vậy, cần
vận động các hộ nuôi lợn xây dựng bể Biogas để xử lý phân, diệt trứng F. buski.
+ Quản lý và xử lý triệt để nước rửa chuồng
Trứng F. buski có thời gian lưu giữ ngắn trong bể Biogas, khi theo nước thải ra
ngoài vẫn còn khả năng phát triển. Vì vậy, biện pháp xử lý đơn giản là xây 2 - 3 bể
chứa nước thải trước cửa thải của bể Biogas để làm lắng trứng, giữ trứng lại trong bể
150 mà không cho phát tán ra ngoại cảnh.
- Vệ sinh thú y, quản lý và nuôi dưỡng tốt đàn lợn
Thường xuyên coi trọng công tác vệ sinh thú y, quản lý, nuôi dưỡng đàn lợn; định
kỳ tẩy sán cho lợn bằng thuốc Praziquantel; không cho lợn ăn sống rau muống nước, bèo
Nhật Bản; diệt ốc ký chủ trung gian bằng cách làm khô cạn các ao, ruộng trước mùa hè
vì lúc này ốc chưa hoạt động và phân tán.
5.2. Điều trị bệnh
Để sử dụng thuốc tẩy F. busk i cho lợn và người có hiệu quả, cần xây dựng lịch tẩy
trừ thích hợp với điều kiện cụ thể ở vùng có bệnh.
Ở Việt Nam, các tác giả đã xác định rằng, Dipterex và Dichlovos là những thuốc
tẩy có hiệu quả cao với sán F. busk i. Các thuốc này đã được dùng ớ nước ta trong
nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, nước ta đã cấm sử dụng Dipterex và Dichlovos tẩy giun sán
cho gia súc.
Từ năm 2002 đến 2005, chúng ta chưa xác định được thuốc có tác dụng tẩy sán lá
ruột lợn có hiệu quả.
Nguyễ n Vă n Thọ (2005) đ ã báo cáo kết q u ả ngh iên c ứu s ử dụng th uốc
Praziquantel liều 15 mg/kgTT tẩy sán lá ruột lợn đạt hiệu lực 93,73%; tỷ lệ sạch sán đạt
90%, thuốc có tác dụng với cả sán non và sán trưởng thành, đồng thời an toàn với lợn. Tác
giả cũng cho biết, thuốc Triclabendazole có hiệu lực thấp với sán F. buski (chỉ đạt 36,84%;
tỷ lệ sạch sán là 10%).
Tình hình sử dụng thuốc tẩy F. buski ở trong nước và nước ngoài được liệt kê ở bảng
sau:
Bảng 6. Các thuốc đã được dùng để tẩy F. buski ở lợn và người
Loại t huốc
Tet rachlorua
Liều dùng
Lợn Người
Nước sử dụng Nguồn tài liệu
- cacbon (CCl
4
) 0,1 - 0,15 g/kgTT
Hạt cau
- Việt Nam Trịnh Văn Thịnh (1963)
(Areca catechu)
Hạt thùn mùn
(Embeliarilies)
Dichlovos (*)
Dipt erex (*)
Oxychlosamid
Praziquantel
- 1 g/kgTT Trung Quốc Barlow, C. H (1925)
5 g/lợn - Việt Nam Đỗ Dương T hái (1967)
0,2g/kgTT - Việt Nam Phạm Chức (1978)
0,15 - 0,2 g/kgTT - Việt Nam Phan Lục (1993)
160 mg/kgTT - Bangladesh Mutt alib (1975)
15 mg/kgTT T hái Lan
Đài Loan Bunnag (1983) Lee (1989)
15 mg/kgTT Việt Nam Nguyễn Văn Thọ (2005)
Ghi chú: (- ): không thấy đề cập đến
(*): thuốc đã cấm sử dụng từ năm 2002
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét