Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

283 BỆNH CẦU TRÙNG LỢN


283   BỆNH CẦU TRÙNG LỢN
(Swine coccidiosis)
Cầu trùng là đơn bào ký sinh phổ biến ở lợn. Trƣớc đây, ngƣời ta cho rằng vai  trò gây
bệnh của cầu trùng lợn không rõ rệt. Hiện nay, quan điểm về vai trò gây bệnh của  cầu trùng
ớ lợn đã thay đổi. Lợn bị bệnh cầu trùng thƣờng còi cọc, chậm lớn, giảm sức  đề kháng với
các bệnh khác.
Bệnh cầu trùng gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi lợn bởi những lý do sau:
- Tỷ lệ chết cao ở lợn con (tỷ lệ chết từ 10 - 20%).
-  Giả m tốc độ sinh trƣởng, tăng trọng kém.
Tiêu tốn thức ăn và các chi phí khác tăng cao nhƣ: chi phí về thuốc điều trị, thuốc  sát
trùng, chăm sóc nuôi dƣỡng. Mu ray P.K. (19 97) cho biết, trong năm 1986, v iệc  bán
thuốc ký sinh trùng trên toàn cầu ƣớc hơn 1,5 tỷ đô la, trong đó có tới 325 triệu đô  la cho
thuốc diệt cầu trùng.
Theo Lê Văn Năm (2003), lợn con, bê, nghé non khi bị cầu trùng mà các kỹ thuật viên
có sai sót trong chẩn đoán thì 30 -  50% số gia súc non bị chết, số còn lại còi cọc chậm lớn
. . .
1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CẦU TRÙNG KÝ SINH Ở LỢN
1.1 Vị trí của cầu trùng lợn trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Levine et ai (1980) (dẫn theo Lƣơng Văn Huấn, 1997),  cầu trùng ký sinh ở  lợn
có vi trí nhƣ sau:
Ngành Apicomplexa
Lớp Sporozoasida
Phân lớp Coccidiasina
Bộ Eucoccidiorida
Phân bộ Eimeniorina
Họ Cryptosporidiidae
Giống Eimeria Schneider, 1875
Loài Eimeria betica (Martinez and Hemandoz, 1973)
Loài Eimeria debliecki (Douwes, 1921) ký sinh ở đoạn
đầu ruột
Loài Eimeria guevarai (Romero and Lizcano, 1971)
Loài Ei meria porci (Vetterling, 1963) ký sinh ở cuối
284   không tràng và hồi tràng.
Loài  Eimeria neodebliecki  (Vetterling, 1965)
Loài Eimeria perminuta (Henry, 193 1 )
Loài Eimeria polita (Pellerdy, 1949) ký sinh ở hồi tràng
và không tràng.
Loài  Eimeria residualis  (Martinez and He mandoz,
1973)
Loài Eimeria scabra (Henry, 1931) ký sinh ở đoạn cuối
ruột non, có khi ở manh
tràng và kết tràng
Loài Eimeria spinosa (Henry, 1931) ký sinh ở hồi tràng
và không tràng
Loài Eimeria suis (Voller, 1 92 1 )
Loài Eimeria sít. (Desser, 1978) ký sinh ở biểu mô ống
mật
Giống Isospora
Loài lsospora almataensis (Paichuk, 1953)
Loài Isospora suis (Biester, 1934) ký sinh ở ruột non,
đôi khi ở kết tràng.
Loài Isospora sp. (Shrivastava and Shah, 1968)
1 2. Đặc điểm hình thái, kính thƣớc và cấu trúc các loài cầu trùng lợn
1.2.1. Hình thái, kích thước
Cầu trùng là động vật đơn bào có hình cầu, hình   trứng, hình bầu dục, hình trụ hay
hình elip (phụ thuộc vào từng loài cầu trùng). Cầu trùng ký sinh chủ yếu ở tế bào biểu  bì
ruột của nhiều loài gia súc, gia cầm và cả ở ngƣời.
* Cầu trùng giống Eimeria:
+ Eimelria deblieck i  (Douwes,1921): đây là loài ph ổ biến nhất, có độc lực gây
bệnh cao nhất và là nguyên nhân chính gây bệnh cầu trùng lợn.  E.debliecki  có 2 dạng
Oocyst:
-  Dạng thứ nhất: có kích thƣớc rất lớn 50 x 25 µm, vỏ gồm 2 lớp rõ rệt, không có
Micropyle (lỗ noãn), hình trứng, dƣới kính - hiển vi nhìn thấy các hạt nội nhân rõ rệt. Thời
gian hình thành bào tử nang là 7 - 9 ngày .
Dạng thứ hai: có kích thƣớc nhỏ hơn 18-24 x 15- 20 µm, nhƣng có  Micropyle và
dƣới kính hiển vi không nhìn thấy các hạt nội nhân. Thời gian tạo thành bào tử nang là
285   2 - 3 ngày.
Loài  E.debtieck i  cƣ trú ở tá tràng, làm cho niêm mạc ruột viê m cataz rồi xuất
huyết và hoại tử ( Phạ m Văn Khuê, Phan Lục,1996).
Theo Lê Văn Năm (2003), loài  E. debliecki có độc lực mạnh  ở
lợn con, nhƣng khi ký sinh ở lợn trƣởng thành chú ng ít có khả năng
làm lợn phát bệnh.
+ Eimeria suis  (Voller, 1921):  Oocyst  hình dịp hoặc hình
cầu kính thƣớc 13  -  20 x  11  -  15 µm, vách nhẵn, không màu,
không có Micropyle. Thời gian hình thành bào tử nang là 6 ngày.
+ Eimeria neodebliecki (Vetterling, 1965): Oocyst  hình dịp, kích
thƣớc trung bình 21,2 x 15,8 âm, không có  Micropyle. Thời gian hình
thành bào tử nang là 13 ngày.
+ Eimeria scabra  (Henry,1931):  Oocyst  có hình bầu dục
hoặc hơi có dạng dịp, màu vàng nâu. Vỏ có 2 lớp, xù xì tựa nhƣ
phủ đầy  gai. Có lỗ noãn ở phần hẹp của nang trứng. Trong nang
trứng có hạt cực. Kích thƣớc 23,2  -  34,8 x  17,4  -   23,7 µm, trung
bình là 30,55  -   21,56 µm. Thời gian hình thành bào tử là 9  -  12
ngày, trong bào tử có thể cặn. Sinh sản vô tính và sinh sản giao tử
t rong màng niêm mạc trực tràng. Ký sinh ở đoạn hồi tràng, có khi
ở ruột già lợn.
+ Eimeria spinosa  (Henry, 1931):  Oocyst  hình bầu dục hay  hơi
kéo dài thành hình elip. Vỏ màu nâu và rất xù xì (toàn bộ mặt  ngoài
đƣợc bảo vệ bởi tập hợp những gai dài khoảng  1 âm, không  có
Micropyle nhƣng có hạt cực. Kích thƣớc 16  -  22,4 x 12,8  -  16  µm.
Sinh sản vô tính trong ruột non. Thời gian hình thành bào tử là 12  -  15
ngày . Ký sinh ở ruột non lợn .
+ Eimeria guevarai  (Ro meo, Riđriguez và Lizcano Herrera,
1 93 1 ) :  Oocyst  hình quả lê, kích thƣớc 26  -  32 x 1 5  -  19 µm,
không có  Micropyle.  Thời gian hình thành bào tử là 10 ngày ở
nhiệt độ 20
0
C.
+ Eime~ia perminuta  (Henry,1931):  Oocyst  hình trứng, đôi  khi
hình cầu, kích thƣớc 11,2  -  16 x 9,6  -  12,8 µm, vỏ nhám, màu  vàng
nâu, không có  Micropyle.  Thời gian hình thành bào tử là 11µ  +
Eimeria scrofae  (Ga m  -  Va lerio,1935):  Oocyst  hình trụ, kích  thƣớc
24 x 15 µm, có Micropyle.
+ Eime ria polita  (Pellerdy,1949):  Oocyst  hình e lip, kích
thƣớc 23 -  27 x 10 -  17 µm, vỏ nhẵn, màu vàng nâu, hoặc hồng
286   nâu, không có  Micropyle.  Thời gian hình thành bào tử là 8  -  9 ngày. Ký sinh ở hồi
tràng và không tràng lợn.
+ Eimeria porci  (Vetterling, 1963):  Oocyst  hình trong, kích thƣớc 18  -  27 x   13  -18 µm, vỏ nhẵn, không màu và Micropyle không rõ ràng.
+ Eimeria cerdonis  (Vetterling, 1965):  Oocyst  hình dịp, kích thƣớc 26  -  32 x 20  -23 em, vỏ nhám, màu vàng đến không màu, không có Micropyle.
* Cầu trùng giống lsospora:
+ Isospora suis  (Biester và Murray, 1934):  Oocyst  hình bầu
dục  hay gần  tròn, vỏ   có 2 lớp màu vàng sáng và trơn nhẵn. Kích
thƣớc 17,4  -22,3 x 14,5  -  20,3 µm trung bình 20,78 x 17,31 â m. Có
hạt cực. Sinh sản vô tính trong niêm mạc ruột non. Thời gian hình
thành bào tử khoảng 3  -  5 ngày. Ký sinh ở ruột non đôi khi ở  kết
tràng lợn.
+ Isospora almaataensis (Paichuk, 1953): Oocyst hình bầu dục hay gần tròn. Vỏ trơn
nhẵn, màu xám đậm hay xá m nhạt. Hạt cực thƣờng có ở những nang trứng tròn.  Kích
thƣớc 24,6  - 31,9 x 23,2  - 29 µm. Sau thời kỳ sinh sản bào tử thể cặn hình thành trong bào
tử. Thời gian hình thành bào tử là 3 - 5 ngày.
1. 2.2. Cấu trúc của cầu trùng
Phần lớn Oocyst cầu trùng có đặc điểm cấu tạo nhƣ sau:
Oocyst  màu vàng sáng hoặc không màu, màu vàng nhạt hoặc nâu nhạt. Vỏ ngoài của
Oocyst  thƣờng nhẵn, cũng c ó loài vỏ xù xì  (E. spinosa).  Vỏ chia làm 2 lớp: lớp vỏ  ngoài
dày, vỏ trong mỏng, vỏ ngoài và vỏ trong có thể tách rời nhau bằng axit H2so4  hoặc bằng
cách làm nóng Oocyst trong nƣớc.
Về cấu tạo hóa học: vỏ ngoài là lớp quinone protein, vỏ trong là lớp lip it kết hợp
protein để tạo thành khúc xạ kép  (lipoprotein).  Lớp trong của vỏ  Oocyst  chiếm 80%
gồm: một lớp glycoprotein (dày 0,9 âm), đƣợc bao bọc bởi một lớp lipit dày (0,l em).
Lớp lipit chủ yếu là phospho lipit, chính lớp này bảo vệ  Oocyst  cầu trùng c hống lại sự
tấn công về mặt hóa học. Một số loài cầu trùng ở phía đầu nhọn của  Oocyst  có một cái
"nắp" khúc xạ, gọi là  Micropyle  (lỗ noãn).  Micropyle  là vị trí có khe hở của màng bao
quanh  Macrogamete  khi thụ tinh, sau thụ tinh thì khe hở đóng lại và vì  vậy nhiều loài
không thấy  Micropyle  nữa. Goodrick (1994) khi nghiên cứu vỏ cấu trúc  Oocyst  cho
rằng, lớp ngoài là vỏ bọc liên tục kể cả khi có  Micropyle và sau khi thụ tinh  Micropyte
đóng lại và không bao giờ mở ra nữa, và đây không phải là con đƣờng mà  Sporpzoite
thoát ra khỏi  Oocysl:  Việc thoát ra của  Sporozoite  bằng con đƣờng nào, cách nào, điều
kiện ra sao đều chƣa rõ ràng.
287   1.3. Chu kỳ sinh học của cầu trùng lợn
Vòng đời của cầu trùng đƣợc tính từ khi gia súc th iết phải noãn nang có sức gây
bệnh, qua quá trình sinh trƣởng, phát triển trong và ngoài cơ thể cho đến khi chúng lại  tạo
ra những noãn nang có sức gây bệnh.
Sự lƣu truyền rộng khắp của cầu trùng trên hành tinh của chúng ta là nhờ vào cấu  trúc
và vòng đời  phức tạp cũng nhƣ khả năng thích nghi nhanh để tiếp tục phát triển,  tồn tai
lâu trong thiên nhiên (Lê Văn Năm, 2003).
Chu trình phát triển sinh học của các loài cầu trùng lợn giống nhƣ ở các loài động  vật
khác .
1. 3.1. Chu kỳ sinh học của cầu trùng giố ng Eimeria
Cầu trùng sinh sản theo 3 giai đoạn:
+  Giai đoạn sinh sản vô tính  (Schyzogonie)
+  Giai đoạn sinh sản hữu tính  (Gametogonie)
+ Gia i đoạn sinh sản bào tử (Sporogonie)
Hai giai đoạn đầu tiến hành trong cơ thể ký chủ nên gọi là thời kỳ nội sinh   sản. Thời
kỳ nội sinh sản diễn ra trong tế bào biểu bì ruột gia súc (Kolapxki N.A. và cs,  1980).
Giai đoạn sau tiến hành ngoài cơ thể ký chủ nên gọi là thời kỳ ngoại sinh sản.  Cụ thể nhƣ
sau:
-  Giai đoạn sinh sản vô tính  (Schyzogonie):
Lợn nuốt Oocyst  có sức gây bệnh, vào đến dạ dày, dƣới tác động của dịch dạ dày,
288   Oocyst vỡ ra, giải phóng 4  Sporocyst.  Đến ruột non, các  Sporozoit  bên trong  Sporocyst
đƣợc hoạt hoá bởi dịch mật và men Trypsin, chúng trở nên hoạt động, phá vớ lớp
màng của  Sporocyst  và đƣợc giải phóng ra. Lập tức,  Sporozoit  xâm nhập tế bào biểu
mô ruột và tiến hành sinh sản vô tính. Chúng lớn lên rất nhanh, hình tròn hoặc hình
bầu dục, phân chia theo hình thức liệt phân thành nhiều thể phân lập thế hệ 1  (Schizont
1). Ngay bên t rong thể phân lập thế hệ 1 đó, xung quanh mỗi nhân, các nguyên sinh chất
xuất hiện và bao quanh để hình thành dạng ký sinh trùng nhỏ hình bầu dục, lúc  này
chúng đƣợc gọi là thể phân lập trung gian  (Merozoit).  Thể phân lập trung gian  phát
triển, chúng phá t ung tế bào biểu bì nơi chúng khu trú và giải phóng ra rất nhiều  Merozoit
trƣởng thành. Các  Merozoit lại lập tức xâm nhập vào các tế bào biểu bì mới  để tiếp tục
phát triển và trở thành thể phân lập thế hệ mới, gọi là Schizont 2. Quá trình sinh sản vô tính
cứ nhƣ vậy, đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần và tạo ra thể phân lập thế hệ 3,4,5,…Mỗi chủng
cầu trùng khác nhau có giai đoạn sinh sản vô tính khác nhau, hình thành nên các thể phân
lập và số thế hệ thể phân lập nhất định khác nhau, sau đó chúng  chuyển sang giai đoạn
sinh sản hữu tính.
-  Giai đoạn sinh sản hữu tính (Gametogonie):
Gia i đoạn sinh sản hữu tính bắt đầu từ thể phân lập thế hệ cuối cùng của cầu
trùng. Từ thể phân lập cuối cùng, chúng phân chia thành các thể phân đoạn và xâ m
nhập vào các tế bào biểu bì ký chủ để biến thành những thể sinh dƣỡng và phát triển
thành các giao tử đực, giao tử cái. Giao tử cái  (MacrogametlMacrogametocyte),  có
nhân rất to, chứa nhiều chất dinh dƣỡng, ít chuyển động và có lỗ noãn. Giao tử đực
(Micogamet/Microgamerocyte)  nhỏ hơn, nhân của nó cũng nhỏ hơn, chúng chuyến
động nhanh nhờ có 2 lông roi. Qua lỗ noãn  (Micropyle)  của giao tử cái, giao tử đực
chui vào và thực hiện quá trình thụ tinh tạo ra hợp tử. Hợp tử đƣợc bao bọc bởi một
lớp màng bọc, lúc này nó đƣợc gọi là noãn nang  (Oocyst).  Noãn nang hay nang trứng
có hình bầu dục, gần tròn, cắp hay quả lê (phụ thuộc vào từng loài cầu trùng). Đến
đây, các Oocyst rơi vào lòng ruột và kết thúc giai đoạn sinh sản hữu tính.
Màng vỏ bọc nang trứng gồm 2 lớp, nguyên sinh chất  luôn ở dạng hạt. Ở một số
loài cầu trùng thấy Ở một đầu  Oocyst  có cả nắp trứng, lỗ noãn, điểm sáng hay hạt cực.
Nhƣ vậy, tùy từng chủng cầu trùng mà có hình dạng, kích thƣớc noãn nang khác nhau,
có hay không có nắp trứng, lỗ noãn, điểm sáng hay hạt cực,   cũng nhƣ giai đoạn sinh
sản bào tử hình thành bào tử hay túi bào tử, có hay không có thể cặn trong noãn nang
hay trong bào tử.
-  Giai đoạn sinh sản bào tử  (Sporogonie):
Sau khi  Oocyst  rơi vào lòng ruột, chúng cùng với phân đƣợc thải ra ngoài mô i
trƣờn g và bắt đầu giai đoạn phát triển mới ngoài cơ thể.
Theo Bhurtei J. E. (1995), có từ 70  -  80%  Oocyst  thải ra vào ban ngày, tập trung
khoảng thời gian từ 9 giờ sáng đến 13 giờ chiều, mặc dù lúc này chỉ có 25% lƣợng
289   phân trong ngày đƣợc thải ra.
Trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt hoàn toàn khác với môi trƣờng bên trong  cơ
thể ký chủ, các noãn nang muốn tiếp tục duy trì đƣợc sự sống buộc phải thích nghi  với điều
kiện mớ i, trong đó nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, không khí… luôn thay đổi.  Nang trứng tự
bảo vệ bằng cách nhanh chóng tạo ra vỏ cứng, dày gồm 1  -  2 lớp với  màu sắc khác nhau
tùy thuộc vào chủng cầu trùng. Sau đó, trong mỗi nang trứng hình  thành 4 nguyên bào tử
có hình bầu dục, xung quanh mỗi nguyên bào tử lại đƣợc bao  bọc một lớp màng m ỏng và
trở thành túi bào tử (Sporocyst) Trong mỗi túi bào tử, nhân của tế bào lại chia đôi về hai
phía, đƣợc ngăn cách bởi một màng mỏng nữa để trở thành thể bào tử có hình lƣời liề m
gọi là bào tử con (Sporozoit).
Nhƣ vậy, trong quá trình sinh sản bào tử,  đối với cầu trùng thuộc giống  Eimeria
từ mỗi nang trứng  (Oocyst)  hay còn gọi là noãn nang tạo ra 4 tiền bào tử  (Sporocyst),
trong mỗi tiền bào tử lại chứa 2 thể bào tử  (Sporozoit).  Tất cả 8 thể bào tử đƣợc bao
bọc xung quanh bởi một vỏ cứng dày gồm 2 lớp gọi là bào tử nang  (Oocyst  gây bệnh).
Kết thúc giai đoạn 3 của quá trình phát triển cầu trùng hay kết thúc giai đoạn sinh sản
bào tử. Chỉ có các  Oocyst  sau khi trở thành  Oocyst  gây bệnh mới có khả năng gây
bệnh và truyền bệnh từ gia súc này sang gia súc khác. (Kolap xki N.A và cs, 1980).
1.3.2. Chu kỳ sinh học của cầu trùng giống Isospora
Vòng đời của cầu trùng giống  Isospora  cũng tƣơng tự nhƣ giống  Eimeria,  chỉ
khác ở giai đoạn 3  -  giai đoạn sinh sản bào tử  (Sporogonie)  ở ngoài cơ thể. Trong mỗi
Oocyst  chỉ hình thành 2 túi bào tử  (Sporocyst)  chứ không phải là 4 túi bào tử nhƣ
giống  Eimeria.  Nhƣng trong mỗi túi bào tử lại hình thành 4 thể bào tử  (Srorozoit),  và
tất cả đƣợc bọc chung trong vỏ cứng gồm 2 lớp gọi là bào tử nang  (Oocyst  gây bệnh).
Nhƣ vậy, kết thúc giai đoạn sinh sản bào tử của cầu trùng giống  Isospora  cũng tạo ra
bào tử nang  (Oocyst gây bệnh) gồm 8 thể bào tử (Sporozoit)  giống nhƣ Eimeria.
290   291   1. 4. Tính chuyên biệt của cầu trùng
Tính chuyên biệt của cầu trùng là sự thích nghi phức tạp và lâu dài của cầu trùng
đối với cơ thể ký chủ hoặc cụ thể hơn đối với các cơ quan, các mô bào hay tế bào nhất
định phù hợp cho sự tồn tại, phát triển của chúng . (Kolapxki N.A. và cs, 1980, Lê Văn
Năm, 2003).
+ Đối với giống Eimeria:
Tính chuyên biệt của cầu trùng  Eimeria thể hiện rất nghiêm ngặt, chúng chỉ có  thể
gây bệnh cho ký chủ mà chúng thích nghi trong quá trình tiến hóa.
Ví dụ: các loài cầu trùng cừu  không thể nhiễm vào bò và các gia súc khác. Cầu
trùng thỏ chỉ có thể lây nhiễm vào thỏ mà không thể nhiễm vào các loại gia súc khác.
Theo Kolapxki N.A. và cs, (1980), những loài cầu trùng riêng biệt ký sinh ở các loại  gia
súc khác nhau thƣờng khó phân biệt  về mặt hình thái. Ví dụ: một số loài cầu trùng  cừu và
dê hoặc gà và gà tây rất giống nhau về mặt hình thái. Tuy nhiên, một vài thí nghiệm đã
cho thấy, cầu trùng cừu không nhiễm vào dê đƣợc.
Vì vậy, các nhà khoa học đã thống nhất lấy tên chung cầu trùng và thêm tên của loại
gia súc để gọi tên bệnh nhƣ: cầu trùng gà, cầu trùng lợn, cầu trùng thỏ  . . .
Đặc tính chuyên biệt nghiê m ngặt của cầu trùng giống  Eimeria sp.  biểu hiện
không chỉ đối với ký chủ của chúng, mà mỗi loại cầu trùng chỉ khu trú tại một vùng ,  một
cơ quan nào đó nhất định trong cơ thể ký chủ. Ví dụ:  Eimeria tenella chỉ ký sinh  và gây
bệnh trong niêm mạc manh tràng gà, trong khi đó Eimeria acervulina  lại chỉ ký sinh trong
niêm mạc tá tràng. Ở lợn: chủng  Eimeria debliecki cƣ trú ở tá tràng làm cho niêm mạc ruột
bị viêm rồi xuất huyết hoại tử.
Nhƣ vậy, nếu xem xét tính chuyên biệt của cầu trùng thì giống  Eimeria  biểu hiện  rất
rõ rệt, tính chuyên biệt đó đã hình thành trong quá trình thích ứng lâu dài của ký  sinh
trùng đối với một ký chủ nhất định  cũng nhƣ đối với từng cơ quan, từng mô bào  riêng
biệt. Theo dẫn liệu của Khayxin (1947), đó là điều kiện cơ bản giúp cho nhiều  loài cầu
trùng ký sinh đồng thời trên cùng một ký chủ.
+ Đối với giống Isospora.
Các nhà nghiên cứu cho biết, dạng tăng trƣởng  và phát triển trong quá trình sinh sản
của  Isospora  không có tính chuyên biệt, vì thế sản phẩm tăng trƣởng của  Isospora  gondii
hoặc của  I. bigemina  là  Toxoplasma có thể gây bệnh không chỉ cho chó, mèo mà còn có
khả năng gây bệnh cho chuột, cu li, thỏ, cừu , linh dƣơng, hoẵng, bồ câu, chim sẻ vịt, rùa,
rắn và kể cả con ngƣời.
1.5. Sức đề kháng của cầu trùng
Sức đề kháng của cầu trùng là khả năng chống lại các tác nhân bên ngoài tác
động đến sự sinh trƣởng và phát triển bình thƣờng của cầu trùng. Các yếu tố ngoài môi
trƣờng nhƣ nhiệt độ, độ ẩm, các chất hóa học,... nói chung đều tác động vào Oocyst,
292   điều này có ý nghĩa rất lớn trong nghiên cứu dịch tễ học bệnh cầu trùng và phƣơng pháp
phòng chống bệnh cầu trùng trong chăn nuôi.
* Ảnh hƣởng của các yếu tố vật lý
+ Nhiệt độ: môi trƣờng ẩm ƣớt và nhiệt độ ôn hòa là điều kiện thuận lợi nhất cho  cầu
trùng phát triển. Nhiệt độ 20
0
C  -  23
0
C Chỉ mất 16  -   18 giờ để cầu trùng phát triển thành
bào tử con.
Theo Lƣơng Văn Huấn và cs (1997),  Oocyst  của  E. debliecki, E. scabra  có thể  tồn
tại trong môi trƣờng bên ngoài 15 tháng ở nhiệt độ từ ( - 4
0
C) - 40
0
C, Oocyst không  có bào tử
tiếp tục tồn tại ở nhiệt độ (- 2
0
C) - (-7
0
C) ừ nhất 26 ngày.
Lê Văn Năm (2003) cho biết, nhiệt độ thích hợp cho quá trình phát triển  bào tử
nang ngoài cơ thể là 15 - 35
0
C. Lạnh -15
0
C Và nóng trên 40
0
C bào tử nang sẽ chết.
So sánh khả năng chịu đựng của Oosyst trƣớc và sau khi sinh bào tử, Glullough
N. (1952) thấy rằng: ở nhiệt độ cao chúng đều bị tiêu diệt ở nhiệt độ 40
0
C Sau 96 giờ,
45
0
C. Sau 3 g iờ và 50
0
C sau 30 phút. Kh i nhiệt độ tƣơng đối thấp (12
0
C  -  20
0
C )
Oocyst gã Sinh bào tử tồn tại đƣợc 14 ngày, nhƣng với  Oocyst  chƣa sinh bào tử chỉ chịu
đƣợc không quá 56 giờ.
Long P.L và cs (1979) cho rằng:  Oocyst  có thể tồn tại qua mùa đông giá lạnh,
nhƣng không chịu đƣợc nhiệt độ cao.
Trong điều kiện nƣớc nóng 80
0
C, Oocyst Chết ngay tức khắc (Onop E.M., 1962).
+ Ẩm độ: ẩm độ có vai trò quan trọng trong giai đoạn cầu trùng sinh sản bào tử
ngoài môi trƣờng và ảnh hƣởng đến khả năng tồn   tại của Oocyst cầu trùng.
Theo Ellis C.C (1986), ở nhiệt độ không thay đổi  Oocyst  sẽ bị chết khi ẩm độ
giảm.
Nhiệt độ từ 18
0
C - 40
0
C, ẩ m độ 21% -  30% thì chúng dễ bị chết sau 4 - 5 ngày.
Goodrich H.P (1994) đã đƣa ra kết luận: lớp vỏ ngoài đã giữ cho  Oocyst  không bị
thấm chất lỏng, nhƣng nó lại dễ nứt trong điều kiện khô hạn.
+ Các tia tử ngoại
Theo Wamer D.E (1933), Oocyst tồn tại 18 tuần trong đất râm mát một phần, 21  tuần
trong đất râm mát hoàn toàn.
Ánh nắng chiếu trực tiếp lác động gây hại đến  Oocyst,  nhƣng cỏ dại đã bảo vệ
chúng tránh tia X (Long P.L và cs, 1979).
Theo kết quả nghiên cứu của Fish (1932) ở phòng thí nghiệm, các  Oocyst bị tiêu  diệt
khi chiếu tia tử ngoại ở cƣờng độ vừa phải.
Phạm Văn Chức và cs (1989) cho rằng,  Oocyst  khi bị xử  lý bức xạ ở mức 20  -  35
Krad cho giá trị bảo hộ tốt nhất (100%), dƣới 10 Krad (80%), nhƣng nếu liều quá thấp
293   hoặc quá cao thì không có hiệu quả phòng bệnh.  Oocyst  chƣa sinh bào tử ít mẫn cảm  đối
với tia X hơn Oocyst đã sinh bào tử tới 15 lần.
* Ảnh hƣởng của các yếu tố hóa học
Sự chịu đựng đặc biệt với môi trƣờng biến đổi do có sức đề kháng với một số
chất tẩy trùng là yếu tố quan trọng để duy trì sự tồn tại và lây truyền của cầu trùng.
Oocyst  cầu trùng có sức đề kháng cao với các loại hóa c hất và thuốc sát trùng thông
thƣờng. Perard (1925) cho biết,  Oocyst  có thể sinh bào tử sau nhiều ngày tiếp xúc với
dung dịch sát trùng : KMnO4 0 , 1 % , Formol 5 % , H2so4 Và HCl 1 0 % .
Tuy vậy một số chất lại diệt đƣợc  Oocyst nên đã đƣợc áp dụng để là m chất tiêu  độc
chuồng trại nhƣ dung dịch amoniac 10%, metyl bro mid. Willia m R.B (1977) đã  nghiên
cứu tác dụng của dung dịch amoniac 10% trong 12 giờ liên tục có thể làm cho  100%
Oocyst không sinh đƣợc bào tử và có thể dùng tiêu độc tết.
2. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC CỦA B ỆNH CẦU TRÙNG LỢN
Loài vật mắc bệnh: tất cả các giống lợn nhà và lợn ừng đều có thể mắc bệnh.
Đường bài xuất mầm bệnh:  lợn mắc bệnh bài xuất  Oocyst  cầu trùng qua phân ra
ngoài ngoại cảnh.  Oocyst đƣợc phát tán rộng rãi ở ngoài tự nhiên và quá  trình sinh sản  bào
tử bắt đầu để tạo thành các Oosyst có khả năng gây bệnh.
Đường xâm nhập vào cơ thể.  lợn nhiễm cầu trùng qua đƣờng miệng, do lợn tiếp  xúc
với thức ăn, nƣớc uống, nền chuồng, dụng cụ chăn nuôi nhiễm  Oocyst  cầu trùng  có sức
gây bệnh.
Cầu trùng lây nhiễm từ lợn bệnh sang lợn khỏe theo 2 cách:
-  Lây nhiễm trực tiếp: lợn bệnh thải  Oocyst  cầu trùng qua phân, do đó  Oocyst  sẽ
dễ dàng đƣợc phát tán trên khắp nền chuồng, máng ăn, máng uống và dụng cụ chăn
nuôi. Tập tính của lợn là thƣờng hay sụ c sạo, liếm láp nên dễ thiết phải  Oocyst  có sức
gây bệnh.
Xét nghiệ m tìm  Oocyst  (noãn nang) cầu trùng trong gần 600 mẫu cặn nền
chuồng, sân chơi và khu vực quanh chuồng, tại 13 xã thuộc tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn
Thị Kim Lan và cs (2005) cho thấy: thời g iản phát triển của  Oocyst  cầu trùng tới giai
đoạn cảm nhiễ m phụ thuộc vào nhiệt độ và ẩm độ môi trƣờng ngoại cảnh: loà i  E.
debliecki  từ 101  -  141 giờ,  E. suis  từ 96  -  136 giờ,  E. porci  từ 102  -  130 giờ,  I. suis  từ
69 - 98 giờ.
-  Lây nh iễ m g ián tiếp : dụ ng cụ chăn nuôi, ngƣờ i chăn nuôi, g iầy, dép , ủng,
phƣơng tiện vận chuyển cũng đóng vai trò quan trọng trong việc mang  Oocyst  cầu
trùng từ ngoài vào trong chuồng nuôi gia súc hoặc từ ô chuồng này sang ô chuồng
khác.
Mặc dù chƣa có dẫn liệu về sự lây nhiễm cầu trùng lợn qua dụng cụ chăn nuôi,
294   nhƣng những nghiên cứu về sự lây nhiễm gián tiếp cầu trùng gà đã đƣợc ghi nhận.
Bạch Mạnh Điều (1995) đã kiể m tra 420 mẫu xe cải tiến, quang thúng thấy tỷ lệ nhiễm  cầu
trùng là 4,28%. Hoàng Thạch (1999) khảo sát 250 mẫu từ ủng dùng trong khu  chuồng
nuôi, tỷ lệ nhiễm là 5,6% và khảo sát 250 mẫu dụng cụ dọn vệ sinh chuồng nuôi, tỷ lệ
nhiễm là 11,2%.
Ngoài ra, các loại côn trùng, động vật nhƣ gián, ruồi, chuột…  cũng là tác nhân
mang Oocyst cầu trùng từ ngoài vào hoặc từ ô chuồng này sang ô chuồng khác.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và Lê Minh (2006 -  2008), các loại động vật thƣờng có ở
chuồng lợn và khu vực xung quanh chuồng có khả năng mang  Oocyst cầu trùng. Trong đó
khả năng mang và phát tán  Oocyst  cầu trùng lợ n của kiến là 27,27%, rồi ruồi  là 22,22% và
gián là 16,67%.
Bệnh cầu trùng ở lợn liên quan đến một số yếu tố sau:
-  Mùa vụ: bệnh cầu trùng lợn phân bố không đều theo các tháng trong năm. Bệnh
thƣờng xuất hiện và dễ bùng phát vào   các tháng có khí hậu ẩm ƣớt, mƣa phùn, nhiệt độ
18
0
C  -  35
0
C. chính vì vậy, mùa Hè và mùa Xuân có tỷ lệ nhiễm cầu trùng cao hơn mùa
Đông và mùa Thu.
- Tuổi: theo Lê Văn Năm (2003), lợn con từ 1 - 3 tháng tuổi rất dễ bị nhiễm căn
295   nguyên, đặc biệt lợn con từ 15  -  60 ngày rất dễ nhiễm bệnh và bệnh dễ dàng bùng nổ ở  thể
cấp tính và dƣới cấp tính. Lợn trên 3 tháng tuổi chỉ mang trùng, rất ít khi bị bệnh.  Chắc C.
(1998) nghiên cứu và cho biết, lợn con trƣớc ca i sữa ở các trại lợn nhiễ m  lsospora suis
với tỷ lệ khá cao, chiế m 50  -  70% các trạ i lợn đƣợc khảo sát.
Svanbaep X.K. (1967) cho rằng, mức độ nhiễm cầu trùng cao nhất là ở lợn con từ  30 -60 ngày tuổi.
Kiể m tra 3.698 mẫu phân lợn từ 4  -  50 ngày tuổi ở các trại chăn nuôi lợn công
nghiệp ở thành ph ố Hồ Chí Minh, Lâ m Thị Thu Hƣơng (2004) cho biết: tỷ lệ nhiễm
Isospora suis cao hơn Eimeria sp. và Cryptosporidium.  Lợn trong giai đoạn 8  -  14 ngày
tuổi tỷ lệ nhiễm 42,70%, cao hơn các lứa tuổi khác. Sau 21 ngày tuổi tỷ lệ nhiễm  có khuynh
hƣớng giảm dần. T ỷ lệ nhiễm cầu trùng ở lợn nuôi trên nền ximăng cao hơn  rất nhiều so
với lợn nuôi trên nền sàn. Tỷ lệ nhiễm  Isospora suis  ở nền ximăng là  52,65%, nền sàn
là 35,60%.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và Trần Thu Nga (2005), tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm cầu
trùng giảm dần  theo tuổi, nặng nhất ở lợn con dƣới 2 tháng tuổi.
Nhƣ vậy, động vật non đang trong thời kỳ sinh trƣởng mạnh dễ bị bệnh và bệnh
phát triển nhanh hơn, nặng hơn so với động vật trƣởng thành. Động vật đã trƣởng
thành và động vật già các biểu hiện lâm sàng  bệnh cầu trùng ít. Song, chúng lại là
những động vật mang trùng và là nguồn bệnh nguy hiểm nhất đối vớ i động vật non.
-  Điều kiện vệ sinh thú y: tình trạng vệ sinh thú y là một trong những yếu tố ảnh
hƣởng rất lớn đến khả năng nhiễm cầu trùng của lợn.
Theo Morgot A.A. (2000), những cơ sở chăn nuôi có điều kiện chăm sóc tết, vệ
sinh chuồng trại nghiêm ngặt thì tỷ lệ nhiễm cầu trùng là 5  -  10 %. Ngƣợc lại, ở những
cơ sở chăn nuôi có điều kiện không đảm bảo thì tỷ lệ nhiễm cầu trùng chiếm 30  -  69%.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2005) cho biết, lợn nuôi ở tình trạng vệ sinh thú y kém
nhiễm cầu trùng cao, từ 55,45%  -  66,30%. Tỷ lệ và mức độ nhiễm giảm rõ rệt ở tình
trạng vệ sinh tết hơn.
2  - Các yếu tố stress: yếu tố stress có hại nhƣ chuồng trại chật chội, thức ăn kém dinh
dƣỡng, thiếu sữa, nhiệt độ môi trƣờng thay đổi, lợn con đang mắc các bệnh ký  sinh trùng
khác hoặc hen suyễn thì bệnh cầu trùng xảy ra nặng hơn.
3. ĐẶC ĐIỂM B ỆNH LÝ VÀ LÂM SÀNG B ỆNH CẦU TRÙNG LỢN
3.1. Đặc điểm bệnh lý
Theo Kolap xki N.A. và cs (1980), t rong màng niê m mạc ruột, cầu trùng phát
triển mạnh bằng sinh sản vô tính và làm cho hàng loạt tế bào biểu bì bị chết. Ngƣời ta
xác định rằng, một con vật mắc bệnh cầu trùng thải ra môi trƣờng bên ngoài hàng ngày
từ 9 t riệu đến 980 triệu nang trứng. Điều đó có nghĩa là trong cơ thể con vật ốm, hàng
ngày bị chết trên 500 triệu tế bào biểu bì ruột. Không những chỉ các tế bào trong đó
cầu trùng sinh sản mạnh mẽ, mà hình nhƣ cả những tế bào bên cạnh, những mao mạch
và mạch quản bị phá hủy. Sự phá hủy hàng loạt các tế bào của ký chủ làm cho tính
toàn vẹn của vách ruột bị tổn thƣơng. Những vùng ruột bị phá hủy sẽ bị vi sinh vật
xâ m nhập vào làm phức tạp thêm cho quá trình sinh bệnh và gây ra những ổ hủy hoại
lớn cho màng  niêm mạc. Vì vậy, nhiều đoạn ruột không tham gia đƣợc vào quá trình
tiêu hóa. Điều đó làm cho con vật đói dai dẳng, dẫn tới sự ngƣng đọng và phù nề các
cơ quan và mô bào khác nhau. Quá trình bệnh thƣờng thể hiện loãng máu, giảm bạch
cầu, mạch đập chậm.  Sự sinh sản mạnh mẽ của cầu trùng trong niêm mạc ruột và sự
phá hủy các tế bào biểu mô ruột dẫn tới hậu quả là trên các vùng protit bị chết, hệ vi
khuẩn gây mủ sẽ sinh sản. Các loại vi khuẩn này còn làm nặng thêm quá trình viêm
trong ruột, gây rối loạn  chức năng hấp thụ và vận động của ruột, dẫn đến con vật ỉa
chảy.
Conway D.P, Mackenzie và Dayton (1999) cho biết, chính tổn thƣơng ruột do cầu
trùng gây ra đã làm ảnh hƣởng đến khả năng tăng trọng của vật nuôi.
Gobze m V.P. (1972) cho rằng, mất 10  -  15%  nƣớc trong cơ thể sẽ làm cho con  vật
chết. Theo tác giả, sự rối loạn trao đổi nƣớc sẽ làm tăng độ dính của máu, làm cho  tim hoạt
động khó khăn hơn.
Willia ms R.B., Busshell A:C. và cs (1996) cho thấy, quá trình gây bệnh của cầu
trùng giống  Eimeria  nhƣ sau: ngày thứ nhất ở trong ruột, dƣới tác động của dịch dạ
dày, d ịch ruột và d ịch mật ,  Oocy st  b ị phá v ỡ và g iả i phóng ra bào tử c ầu trùng
(Sporocyst).  Chúng lập tức chui vào các tế bào b iểu b ì để ký sinh và h ình thành
Schizont  1 , giải phóng ra các  Merozoit.  Các  Merozoit  tiếp tục xâm nhập vào tế bào
mới. Ngày thứ hai và ba, sau 2 hoặc 3 thế hệ  Schizont  2 hoặc  Schizont  3, các  Merozoit
thế hệ cuối cùng sẽ phát triển biệt hóa trở thành giao tử đực, giao tử cái trong tế bào
niêm mạc ruột và tuyến. Lúc này. h iện tƣợng xung huyết niêm mạc ruột là biểu hiện
căn bản, hiện tƣợng xuất huyết còn ít. Ngày thứ tƣ giao tử đực kết hợp với giao tử cái
hình thành hợp tử, rồi trở thành  Oocyst.  Ngày thứ năm hàng loạt tế bào niêm mạc ruột
bị phá vỡ, giải phóng Oocyst  vào xoang ruột, gây hiện tƣợng xuất huyết lan tràn, tế
3  bào biểu mô long tróc, làm cho thành ruột trở nên mỏng. Đến ngày thứ 6 bắt đầu xuất  hiện
Oocyst thải qua phân.
Những xét nghiệm máu về hóa sinh và hình thái cho thấy, khi bị bệnh cầu trùng,
lƣợng   hồng cầu và hemoglobin giảm, con vật bị thiếu máu. Ngoài ra, vào thời kỳ bệnh  tiến
triển cấp tính còn thấy giảm lƣợng đƣờng dự trữ trong máu, giả m catala za và  lƣợng
kiềm dự trữ. Đó là nguyên nhân dẫn đến bệnh súc nhanh chóng kiệt sức và chết  (Kolapxki
N.A. và cs, 1980).
Gây bệnh cầu trùng cho 8 lợn trên 30 ngày tuổi ở Thái Nguyên, Nguyễn Thị Kim
Lan và Lê Minh (2006  -  2008) thấy: thời gian ủ bệnh là 7  -  8 ngày, thời gian lợn bắt
đầu thải  Oocyst  là 8  -  9 ngày, số lƣơng  Oocystlgam  phân cao nhất ở 15  -  21  ngày sau
gây nhiễm, giảm ở 22 -  27 ngày và từ ngày thứ 28 trở đi không còn Oocyst trong phân.
3.2. Triệu chứng bệnh cầu trùng lợn
Triệu chứng lâm sàng của lợn bị bệnh cầu trùng thay đổi tùy thuộc vào tuổi con  vật,
loài cầu trùng, số lƣợng Oocyst có mặt trong từng cơ thể lợn.
- Ở lợn con:
Theo Nguyễn Đức Lƣu và cs (2004), tỷ lệ lợn con mắc bệnh từ 50 - 70%.
Bệnh thƣờng xảy ra ở thể cấp tính hoặc mãn tính, tỷ lệ tử vong từ 10  -  20% nếu
không điều trị kịp thời. Sau 5 - 7 ngày ủ bệnh, lợn đột nhiên ủ rũ, mệt mỏi, hay nằm, ít bú và
bỏ bú. Sau đó không lâu chúng ỉa chảy mạnh, phân loãng hoặc nhầy, màu từ  vàng đến
trắng, mùi khắm và có lẫn máu (trong trƣờng hợp nặng máu chiếm phần lớn  trong phân)
(Trƣơng Văn Dung và cs, 2002).
Quan sát kỹ lợn bệnh thấy lợn b ị chƣớng hơi, đầy bụng, khó chịu, nôn, mất nƣớc  và
có hiện tƣợng đau bụng, nằm cong lƣng. Ngoài ra, có con có biểu hiện thần kinh  nhƣ đi
không vững, đi vô hƣớng hoặc nằm co giật.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2003), khi lợn nhiễm  Isospora suis có thể bị nhiễm  các
Rotavirus, gây bệnh lợn con ỉa phân trắng.
Đào Trọng Đạt và cs (1964) cho biết, tỷ lệ nhiễm cầu trùng ở lợn là 7,29%, trong  đó
lợn ỉa phân trắng là 4,2%.
Theo Biester H.E và Muray (1934), lợn con kh i b ị nhiễ m  E. deblieck i  với số
lƣợng lớn sẽ gây ỉa c hảy, kém ăn, sinh trƣởng kém và một số lợn bị chết.
Andrew và cs (1952) cho biết, khi quan sát phân của lợn có 7 triệu Oocyst loài E.
spinosa không thấy lợn có biểu hiện triệu chứng lâ m sàng. Nhƣng, bằng thực
nghiệm gây nhiễm cho lợn 12.000 Oocyst E. spinosa, Wiesenhiitter (1962) đã thấy triệu
chứng ỉa chảy, sốt nhẹ ở lợn con.
Alicataz J.E. và Willer E.L. (1946) cũng cho rằng: khi lợn nhiễm 20  -   30 triệu
Oocyst E. deblieck i  gây lợn ỉa chảy, giảm ăn vào ngày thứ 7 sau khi gây nhiễm và chết
4  sau  15 ngày. Gần đây, Wiesnhiitter E. và cs (1962), Wiesnhiitter E. (1963) nghiên cứu thấy,
khi lợn nhiễm 10.000 E. debliecki  gây cho lợn con ỉa chảy, gầy yếu.
Lâm Thị Thu Hƣơng (2002) đã xét nghiệm 128 lợn có trạng thái phân lỏng, thấy tỷ lệ
lợn nhiễm Cryptosporidium là 37%, gây cho lợn tiêu chảy, còi cọc, chậm lớn, sức  đề kháng
giảm.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2006) cho thấy, tỷ lệ và
cƣờng độ nhiễm cầu trùng ở lợn phân bình thƣờng và phân lỏng khác nhau rõ rệt. Lợn bị
tiêu chảy có tỷ  lệ nhiễm cầu trùng là 56,32% cao hơn tỷ lệ nhiễm cầu trùng của lợn có trạng
thái bình thƣờng (36,50%). Xét về mức độ nhiễm, lợn bị tiêu chảy nhiễm cầu  trùng nặng
hơn nhiều so với lợn bình thƣờng.
- Ở lợn trƣởng thành:
Ở lợn choai và lợn trƣởng thành, bệnh thƣờng thể hiện mãn tính. Lợn gầy rộc,
không tăng trọng, khi nuôi dƣỡng kém có thể ỉa chảy, và chỉ có lợn con mới chết do
bệnh cầu trùng.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006), lợn mắc bệnh ở thể mãn t ính, tính thèm ăn  thay
đổi không lớn, tốc độ suy yếu cơ th ể chậm. Lợn nái và lợn trƣởng thành tuy bị nhiễm cầu
trùng nhƣng không biểu hiện triệu chứng lâm sàng, do đó chúng là nguồn  tàng trữ và
truyền bá mầm bệnh trong tự nhiên.
3.3. Bệnh tích của lợn bị bệnh cầu trùng
Kiể m tra lợn chết do cầu trùng thƣờng thấy : xác chết gầy còm, bẩn, niêm mạc nhợt
nhạt, trắng bệch hoặc xanh tái.
Mổ khám lợn chết thấy bệnh tích tập trung chủ yếu ở đƣờng ruột, đặc biệt ở đoạn  tá
tràng, dƣới tá tràng và ruột già. Bệnh tích thƣờng thấy là:
-Trong ruột non chứa một chất nƣớc lỏng, màu da cam với những sợi chất nhầy.
- Ở tá tràng và dƣới tá tràng: niêm mạc ruột bị viêm từ cataz đến xuất huyết và  hoại
tử Nạo niêm mạc và kiểm tra ruột về mặt mô học, thấy biểu bì hầu nhƣ hoàn toàn  đƣợc
thay thế bởi một lớp cầu trùng.
-  Ở ruột già: thành ruột già bị dày lên, niêm mạc ruột già có màng giả do hoại tử,
màng giả có thể thấy trong phân.
- Các hạch màng treo ruột sƣng. Ngoài ra, cũng thấy những bệnh tích viêm phổi,  có lẽ
kế phát do các vi khuẩn sinh mủ gây ra.
Theo Kolapxki N.A. và cs (198 0), màng niê m mạc ruột non viêm cataz, khi bị bệnh
kẻo dài có thể bị viêm xuất huyết không chỉ ở ruột non mà cả ở ruột già. Tại chỗ  ruột bị
viêm thấy những nốt to bằng hạt kê, xem kính hiển vi các nốt đó thấy có các  nang trứng,
các thể phân lập và thể phân  đoạn.
Gây bệnh cầu trùng cho lợn rồi mổ khám lợn mắc bệnh, Nguyễn Thị Kim Lan và
5  Lê Minh (2006  -  2008) cho biết, cầu trùng ký sinh và gây bệnh tích ở ruột non của lợn,
không thấy ký sinh và gây bệnh tích ở ruột già. Làm tiêu bản vi thể, tác giả  nhận thấy
những biến đổi bệnh lý vi thể ở ruột non lợn do cầu trùng gây ra. Những biến đổi chủ  yếu
đƣợc ghi lại ở các hình 140, 141, 142, 143, 144, 145.

5. CHẨN ĐOÁN B ỆNH CẦU TRÙNG LỢN
Dựa vào tình hình dịch tễ, triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm mẫu phân lợn và mổ
khám kiểm tra bệnh tích cho phép chúng ta chẩn đoán đƣợc bệnh cầu trùng lợn.
-  Với lợn còn sống:
Việc  chẩn đoán có thể căn cứ vào dịch tễ học. Những đặc điểm đáng chú ý là: lứa
tuổi mắc, mùa vụ, tình trạng vệ sinh thú y. Triệu chứng của con vật cũng là những dấu
hiệu hết sức quan trọng trong chẩn đoán bệnh. Những biểu hiện lâm sàng có thể thấy
là: phân  lỏng, bỏ ăn, còi cọc, lông xù. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng
và đặc điểm dịch tễ của bệnh thì khó chẩn đoán chính xác đó là bệnh gì, vì các bệnh ký
sinh trùng thƣờng có biểu hiện bệnh rất giống nhau. Vì vậy, việc xét nghiệm phân để
chẩ n đoán bệnh là căn cứ quyết định kết quả chẩn đoán đối với lợn bị bệnh cầu trùng.
Các phƣơng pháp thƣờng đƣợc dùng là phƣơng pháp Fullerbom, Darling , Cherbovich
…  Có thể dùng phƣơng pháp đếm  Oocyst  trên buồng đếm Mc .Master để xác định
cƣờng độ nhiễm cầ u trùng ở lợn.
9  - Với lợn đã chết:
Việc chẩn đoán đƣợc tiến hành qua mổ khám, kiểm tra bệnh tích kết hợp với việc
dùng phiến kính nạo nhẹ niêm mạc ruột, soi kính hiển vi để tìm  Oocyst và các dạng khác
trong quá trình phát triển của cầu trùng.
Theo  Nguyễn Đức Lƣu và cs (2004), kh i chẩn đoán bệnh cầu trùng, cần chẩn
đoán phân biệt với một số bệnh:
Bệnh giun đũa lợn: lợn bệnh cũng có biểu hiện tiêu chảy kéo dài, còi cọc, chậm
lớn, thỉnh thoảng nôn, ho. Tổn thƣơng thấy ở gan, ruột, phổi, đặc biệt ở r uột. Xác chết
gầy.
Bệnh phân trắng lợn con: lợn con ỉa phân lỏng màu trắng sữa, dính xung quanh  hậu
môn; lợn kém ăn, lông xù, gầy yếu, chậm lớn. Tỷ lệ chết cao từ 40  -  70%, thậm  chí
100%.  -  Bệnh ỉa chảy do vi khuẩn đƣờng ruột ở lợn sau cai sữa trở lên: lợn bệnh có  biểu
hiện kém ăn, đau bụng, rối loạn tiêu hóa, phân lỏng, đi xiêu vẹo, còi cọc. Bệnh  tiến triển
10 -  15 ngày thì chết nếu không điều trị kịp thời.
-  Bệnh hồng lỵ: bệnh thƣờng mắc nặng ở lợn cai sữa và lợn 6  -  12 tuần tuổi.
Triệu chứng đặc trƣng  của bệnh là ỉa chảy, phân màu hồng chứa màng nhầy, máu và các
tế bào hoại tử. Nếu không chữa trị kịp thời lợn sẽ chết và chết với tỷ lệ cao.
6.PHÒNG TRỊ B ỆNH CẦU TRÙNG CHO LỢN
6.1. Phòng bệnh
Các nghiên cứu về miễn dịch cầu trùng cho đến nay vẫn còn ít  và chƣa đầy đủ. Một
số nghiên cứu đã cho thấy khả năng sinh miễn dịch cầu trùng của cơ thể gia súc,  gia cầm
rất ké m và miễn dịch ch ỉ có tác dụng trong thời gian ngắn. Cho đến nay,  vắc xin phòng
bệnh cầu trùng lợn vẫn chƣa có. Vì vậy, vấn đề phòng bệnh cầu  trùng  cho lợn chủ yếu
dựa vào chăm sóc nuôi dƣỡng và vệ sinh phòng bệnh.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và Lê Minh (2006 -  2008), cầu trùng lợn có chu trình phát
triển rất nhanh (5  -  13 ngày),  Oocyst  gây bệnh tồn tại đƣợc lâu trong đất (70  -  75 ngày),
Oocyst ngâm trong hố nƣớc thải chuồng lợn vẫn tồn tại trong khoảng thời gian 60 đến 90
ngày. Đó là những điều kiện thuận lợi cho cầu trùng và bệnh cầu trùng lợn  phát triển.
Đồng thời,  Oocyst bị tiêu diệt trong phân ủ nhiệt sinh học (hình 146). Vì  vậy, để phòng
bệnh  cầu trùng đòi hỏi các cán bộ kỹ thuật và công nhân chăn nuôi lợn  phải nghiêm túc
thực hiện tết các giải pháp phòng bệnh sau:
Vệ sinh chuồng trại, dụng cụ thiết bị sạch sẽ. Chuồng trại chăn nuôi phải xây nơi  cao
ráo có nhiều ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp. Thức ăn phải đảm bảo, nƣớc uống  phải sạch
sẽ.
- Không nuôi chung lợn nhiều lứa tuổi khác nhau trong một khu vực.
10  Phân và chất độn chuồng của đàn lợn phải đƣợc thu gom hàng ngày và ủ kỹ đúng  nơi
qui định, thƣờng xuyên có biện ph áp tiêu diệt côn trùng, chuột và động vật hoang  dã ở khu
vực chuồng nuôi lợn.
-  Mỗi hộ gia đình nên có hố chứa nƣớc thải chuồng lợn đảm bảo vệ sinh thú y (hố
nƣớc thải chuồng lợn phải đặt cách xa khu vực chuồng nuôi, có ống dẫn nƣớc thải đặt
ngầm trong đất, miệng hố phải đƣợc đậy kín). Nƣớc thải phải đƣợc xử lý trƣớc khi sử
dụng tƣới cho cây trồng (có thể xử lý bằng chế phẩm sinh học để diệt  Oocyst  cầu
trùng).  -  Theo Lê Văn Năm (2003), từ 15 đến 90 ngày tuổi nên dùng  T. Eimerin  hoặc
Vinacoc.  ACB  với liều bằng 1/2 liều chữa, dùng 3 ngày, nghỉ 5 ngày sẽ không những
loại bỏ đƣợc bệnh cầu trùng mà còn phòng đƣợc bệnh phân trắng, chƣớng hơi, phó
thƣơng hàn lợn con.
Chuồng trại vào các tháng mƣa phùn, lạnh phải khô ráo, thoáng và ấm cho lợn
con.
-  Phải rất cẩn thận thực hiện các chế độ dinh dƣỡng trong thời gian cai sữa:  + Tập
ăn sớm với thức ăn chuẩn.
+ Tăng dần khẩu phần và số lần tập ăn, giảm dần khối lƣợng sữa và số lần cho  bú
tối thiểu 7 ngày trƣớc và sau cai sữa.
+ Trong thời gian tập ăn nên dùng 1 trong 2 loại thuốc kể trên 3 ngày trƣớc và
11  sau cai sữa.
-  Nếu bệnh xảy ra, phải nhanh chóng báo cho cán bộ có thẩm quyền, có trình độ
chuyên môn để có giải pháp dập tắt. Trong thời gian xảy ra bệnh, đàn lợn phải đƣợc ăn  thức
ăn đủ hàm   lƣợng đạm, v itamin và nguyên tố vi lƣợng. Nguồn nƣớc uống phải  sạch sẽ
dồi dào và không đƣợc để lợn bị khát.
Trong chăn nuôi, việc nuôi quá đông và tích tụ phân, gây ô nhiễm trong môi
trƣờng nuôi đều là điều kiện thuận lợi cho bệnh cầu trùng phát triển.
Hiện nay, đã có vắc xin phòng bệnh cầu trùng nhƣng việc sử dụng còn hạn chế.  Ở
Mỹ, đã phát triển vắc xin sống, vắc xin này là hôn hợp  Oocyst  của các loài  Etmeria  phổ
biến nhất. Vắcxin đƣợc pha vào nƣớc uống, nhƣng chỉ thuần túy là khống chế việc  nhiễm
cầu  trùng nên trong quá trình chăn nuôi, đến một lúc nào đó vẫn phải điều trị.  Sau này,
các vắcxin sống phần lớn bị thay thế bằng các vắcxin an toàn hơn, chế tạo từ  các chủng cầu
trùng nhƣợc độc trong phòng thí nghiệm đã mất độc lực nhƣng vẫn sinh  miễn dịch (Hunter
A.. 2002).
Một số tài liệu cho thấy, việc chế tạo vắcxin phòng bệnh cầu trùng hiện nay mới  chỉ
tập trung chủ yếu ở gia cầm và thu đƣợc những kết quả nhất định. Đây là kết quả  rất có ý
nghĩa, mở ra hƣớng nghiên cứu rộng rãi vắc xin phòng bệnh cầu tr ùng ở gia  cầm cũng
nhƣ ở gia súc.
6.2. Điều trị bệnh
Lê Văn Năm (2003), đã giới thiệu 11 nhóm thuốc và hóa chất có khả năng điều  trị
bệnh cầu trùng, bao gồm các nhóm thuốc sau:
+  Nhó m hợp chất chứa  Nitrofuran:  gồm có  Furazolidon Tripan Cocruleum
(phẩm x anh),  Mepacrin (Acrichin).  Nhƣng đa số các chất trong nhóm này đã bị cấm sử
dụng tại nhiều nƣớc trên thế giới, trong đó có Việt Na m (mặc dù có hiệu lực diệt cầu
trùng cao), bởi sự tồn dƣ lâu của thuốc trong cơ thể gia súc, gia cầm, ảnh hƣởng đến  sức
khoẻ c on ngƣời.
+  Nhóm  Pyrinidin:  gồm có  Amprolium, Beclothiamin Diaveridin, Pyrimethamin,
Trimethoprim.  Nhóm thuốc này rất xƣa nhƣng đến nay vẫn phát huy tác dụng và cho  kết
quả phòng trị cầu trùng rất tết.
+  Nhó m  Arsen:  đạ i diện cho nhó m này ngƣời ta hay dùn g  Acetarsol  hoà tan
trong 1% Na
2CO3 . 2H
2
O.
+ Nhóm Nitrocarbanil: gồm có Nicarbazin (Nicrazin), Nicoxin.
+ Nhóm Dinitrobenzamid: gồm có Dinitrolmid (DOT), Ira min, Nitromid.
+  Nhóm Chinolin và các dẫn xuất: gồm có: Buquinolat (Antagonal), Decoquinat,
Nequinat (Methyl benzoquat).
+   Nhó m Py rimid in và các dẫn xuất : Rigecocc in   (Clopydol, Coyden ,
12  Methyclopydol, Methylchlorpyndol...). Khi Rigecoccin kết hợp với Chlortetracyclin  thì
tác động tốt hơn nhiều.
+ Nhóm Gllanidin và các dẫn xuất: đại diện là Robenidin (Robensiden). +
Nhóm Imidazol và các dẫn xuất: đại diện là Glycamid.
+  Nhóm Sulfonamid, nhóm này rất phổ biến và đƣợc sử dụng khá rộng rãi, bao
gồm: Sulfathiazol, Sulfadimidin, Sulfadimethoxin, Sulfaquinoxalin, Sulfaguanidin,
Sulfachlorp yridazin, Sylfachlorpyrazin (Sulfaclo zin).
+   Nhó m kh áng sinh    -  Ant ibiot ic: Gồ m có Sa lino my cin , Monenzin,
Chlortetracyclin, Tetracyclin, Penicillin  G...,  Semduramycin... Trong đó: hiệu quả và  tốt
nhất là Salinomycin và Monenzin.
Xu thế thời đại trong việc điều trị bệnh cầu trùng ngày nay ngƣời ta chú trọng  trong
nghiên cứu phối hợp và bào chế các dẫn xuất thuộc nhóm:  Pyrinidin, Pyrimidin,
Sulfonamind  và nhóm kháng sinh
- Antibiotic thành nhiều các chế phẩ m đặc hiệu và phù hợp vớ i quy mô chăn
nuôi.
Ở việt Na m, các loại thuốc phòng trị cầu trùng đã có trên thị trƣờng nhƣ: Cầu
trùng Năm Thái
-  T. Eimerin,  Vinacoc.ACB, Anticoccid.... Nguyễn Xuân Bình (1993) cho biết,  một
số chế phẩm chống cầu trùng của nhóm Sulfamid ngoại nhập hiện đang sử dụng  trên   thị
trƣờng Việt Na m là:
-  Anticoccid:  sản phẩm của hãng Zavet (Bu ngan), thuốc bột, màu trắng, dễ sử
dụng.
Thành phần của nhóm gồm Salinomycine và Diaveridine.
-  Avicoc:  sản phẩm của hãng Avitec (Pháp) thành phần gồm  Sulfadimedine
20,4% và  Diaveridine  2,6%. Thuốc dạng bột hoà tan, sử dụng an toàn và có tác động  tết
trong điều trị cầu trùng.
-  Coccistop 2000:  sản phẩm của hãng Intervet (Hà Lan), thuốc có dạng bột màu
trắng, dễ hoà tan, sử dụng an toàn, hiệu quả. Thành phần của thuốc:  Sulfadimedine,
Sulfadimethoxine, Diaveridine, Vitamin K.
-  ESB 3:  sản phẩm của hãng Siba (Thuỵ Sỹ), thành phần chính là  Sulfacholozin
30%. Thuốc dạng bột màu trắng, dễ hoà tan, sử dụng an toàn, hiệu quả cao.
* Trong điều trị bệnh cầu trùng, phải chú ý tới những vấn đề sau :
Một là: chu trình phát triển sinh học của bản thân các chủng cầu trùng.
Hai là:  đặc tính sinh học, miễn dịch tự nhiên theo lứa tuổi của động vật: Mỗi loài
động vật có khả năng tự kháng bệnh cầu trùng khi đạt đến lứa tuổi nhất định, ở lợn là
13  sau 80  -  90 ngày. Sau thời gian trên lợn có khả năng kháng bệnh cầu trùng tự nhiên rất  tốt
vật nuôi bị bệnh ở thể nhẹ, ít có triệu chứng lâm sàng và nhìn chung chúng chỉ là  vật chủ
mang trùng (mang mầm bệnh).
Ba là: bản chất tác dụng của các loại thuốc. Mỗ i nhóm thuốc nói chung và mỗi  loại
thuốc nói riêng có tác dụng kìm hãm, tiêu diệt cầu trùng theo những cơ chế riêng  biệt. Có
những thuốc tác dụng kìm hãm quá trình tự nhân đôi của cầu trùng trong thời  gian hình
thành thể phân lập, có những loại thuốc tiêu  diệt các thể phân lập đã và sắp hình thành,
nhƣng cũng có những loại thuốc ngăn cản và triệt tiêu quá trình hình thành  giao tử đực và
giao tử cái của cầu trùng.
Nhìn chung các loại thuốc tác động chủ yếu lên 2 giai đoạn phát triển của cầu  trùng
(giai đoạn   hình thành thể phân lập và hình thành các giao tử) ngay trong cơ thể động vật
ký chủ, ức chế và kìm hãm sự hình thành noãn nang của căn nguyên.
Căn cứ vào 3 vấn đề trên, Lê Văn Năm (2003) đã đƣa ra nguyên tắc điều trị bệnh  cầu
trùng nhƣ sau:
+  Thời gian  điều trị bệnh cầu trùng phải kéo dài ít nhất 3  -  4 ngày, cho dù trong
thực tế khi mới dùng thuốc 1  -   2 ngày đã thấy nhiều đàn gia súc khỏi bệnh về mặt lâm
sàng.
+ Liều dùng thuốc phải đủ để tiêu diệt căn nguyên theo chỉ dẫn sử dụng của mỗi  loại
thuốc.
+ Chu trình phát triển sinh học của cầu trùng cần từ khỏi bệnh 3  - 5 ngày ta phải duy
trì liều phòng liên tục 5 ngày, nên sau khi điều trị ngày và lặp lại cho đến khi gia  súc, gia
cầm đạt đến độ tuổi miễn dịch tự nhiên. Thời gian duy trì liều phòng đối vớ i  lợn đến 90
ngày tuổi.
+  Để nâng cao hiệu lực của công tác phòng và trị bệnh cầu trùng đạt kết quả tết
nhất, khi đã dùng một loại thuốc nào đó để phòng bệnh mà bệnh vẫn xảy ra thì ta nên dùng
một loại thuốc khác thuộc nhóm khác để điều trị sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn và  thời gian
điều trị sẽ đƣợc rút ngắn.
Từ đó, tác giả đã đề xuất một số phác đồ điều trị cầu trùng cho lợn nhƣ sau:  *
Phác đồ 1 :
Sử dụng nhóm thuốc thuộc nhóm Sulfonamid:
Sutfaquanidin, Sulfadimedin, Sulfaclozin... với liều
dùng 3 - 4 ngày liên tục .
* Phác đồ 2 :
Cầu trùng Năm Thái (T.Eimerin) 2 gói loại lớn.
T.Colivit: 2 gói loại lớn.
14
0,2g/1kg thể trọng/ngày,  Hai thuốc trên trộn đều trong cám cho lookg lợn ăn trong ngày và dùng 3 ngày
liên tục
* Phác đồ 3 :
Vinacoc. ACB :   1 gói 20 g
Con - vinavet :   2 gói 20 g
Dùng cho 200kg thể trọng/ngày, liên tục 3 ngày.
Sử dụng một số thuốc (hình 148) điều trị bệnh cầu trùng cho lợn ở Thái Nguyên,
Nguy ễn Th ị Kim Lan và Lê M inh (2006  -  2008) cho b iết : thuốc  Antic occida e
(lg/5k gTT),  Vinacoc. ACB  (lg/1OkgTT),  Cipcox  2,5% (l ml/5kgTT) đạt hiệu lực 83%  -90% và an toàn đối với lợn đƣợc dùng thuốc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét